Người không nói

Sáng hôm ấy, khi gà rừng mới lác đác gáy, mù vẫn còn đọng đặc như hơi thở của núi, người ta phát hiện máu. Một vệt dài, đỏ quạch, loang lổ trên bãi cỏ sau nương ngô nhà ông Tủa. Vệt máu như mũi tên run rẩy, chỉ thẳng về phía rừng già.

Sương trắng rắc mỏng như lớp muối mịn lên những mái ván thông mốc thếch trong bản Pá Thèn - nơi tận cùng rẻo cao dãy Phình Hồ. Núi dựng đứng như vách chặn chân trời. Qua khỏi con dốc đá, mây đã trườn sang bên kia biên giới.

Con đường mòn duy nhất dẫn vào bản mảnh như sợi chỉ, bấu víu lấy sườn núi chênh vênh, ngoằn ngoèo như dấu ngoặc của một lời nguyền cổ xưa. Rừng hai bên vách đá tai mèo như bầy thú hóa thạch, im lìm nhìn xuống thung sâu.

Sáng hôm ấy, khi gà rừng mới lác đác gáy, mù vẫn còn đọng đặc như hơi thở của núi, người ta phát hiện máu. Một vệt dài, đỏ quạch, loang lổ trên bãi cỏ sau nương ngô nhà ông Tủa. Vệt máu như mũi tên run rẩy, chỉ thẳng về phía rừng già.

Không ai thấy xác. Chỉ có máu. Máu văng, máu quệt, máu tụ lại từng đám như đám mây đen đọng dưới đất. Có cả vết chân giẫm đạp, trượt dài như thể một thân người bị lôi đi. Gần đó, một đoạn khăn piêu bị xé rách, vắt lại trên bụi gai. Kinh hãi hơn, trong khe đá là một cẳng tay người, cắt nham nhở, da tím tái, các ngón co quắp như còn cố níu lại cỏ cây lần cuối.

Minh họa: Lê Trí Dũng

Minh họa: Lê Trí Dũng

Bà con lặng người. Không khó để nhận ra, ấy là cánh tay của Giàng Seo Páo - cậu Bí thư Chi đoàn bản, người vẫn thường giúp phiên dịch cho tổ Công an xã chính quy mới cắm chốt ở đây. Páo còn trẻ, là trai bản mực thước, đi nghĩa vụ quân sự về, biết chữ, nói sõi tiếng Kinh, được nhiều người tin yêu.

Cậu là niềm hy vọng của bản làng, là người nối núi với đồng bằng, nối người Mông với chính quyền, lại đang chớm thương cô Páng - con gái út nhà Trưởng bản Vàng A Sính. Năm nay Páng đã mười bảy, da trắng, má hồng, tóc đen dài như suối. Người già đã bàn chuyện cưới, chờ qua mùa ngô sẽ làm lễ.

Vậy mà… chỉ sau một đêm, Páo hóa thành nạn nhân. Bản ngơ ngác. Cái chết không đầu không đuôi như thể trời nổi cơn giận. Nỗi tang thương lặng lẽ len lỏi qua từng vách nứa. Phụ nữ thôi xuống suối giặt lúc chiều muộn. Trẻ con bị cấm bén mảng ra bìa rừng. Chó tru rền vào những đêm trở gió. Người già lẩm nhẩm: “Đó là điềm. Là núi báo oán. Là hồn ma gọi người đi theo”.

Rồi như thứ rễ cây độc ngấm dưới lòng đất, tin đồn loang ra, rằng Páo bị "ma thả mả" bắt đi. Ma rừng không để lại xác.

*

Nhận được tin báo, Đội điều tra trọng án Công an tỉnh tức tốc vượt núi hành quân lên Pá Thèn. Những chiếc xe U-oát cũ kỹ ì ạch leo dốc, lẩn mình giữa sương và đá núi. Họ cắm chốt trên bản chừng nửa tháng trời, triển khai đủ mọi biện pháp nghiệp vụ: rà soát nhân chứng, tìm dấu vết, dựng lại hiện trường giả định. Nhưng càng lật xới, càng rơi vào bế tắc.

Khó khăn lớn nhất là không có xác. Không tìm được nạn nhân thì sao có thể khởi tố vụ án hình sự về tội giết người. Máu - thứ duy nhất còn sót lại sau cơn mưa rừng đêm ấy - đã bị nước rửa trôi sạch sẽ khỏi thảm cỏ sau nương ông Tủa. Chứng cứ vật chất không còn ngoài bàn tay đã phân hủy được người dân đem chôn. Nhân chứng lại càng không. Người ta lắc đầu, cúi mặt, co rúm trong lớp vỏ sợ hãi và niềm tin mơ hồ vào thứ gọi là "ma thả mả". Cán bộ tỉnh lặn lội lên đây, nhưng bất đồng ngôn ngữ, không rành văn hóa, phong tục, tập quán địa phương - tất cả như một bức tường đá ngăn cách họ với sự thật. Cuộc điều tra chẳng xác định nổi đâu là hiện trường chính, chưa tìm thấy nạn nhân, chưa khẳng định được tội phạm đã xảy ra. Không có gì để bấu víu.

Gần một tháng trôi qua, từng chuyến xe lặng lẽ rời bản. Những bóng áo xanh mỏi mệt, im lặng rút đi trong ánh mắt hoài nghi lẫn hụt hẫng của dân làng. Màn sương dày đặc vẫn giăng ngang đại ngàn. Pá Thèn trở lại dáng vẻ âm u, như chưa từng có tiếng còi xe hay giọng loa pin gọi dân ra họp bản.

Người dân thì thầm: “Công an cũng không làm được gì. Chắc Páo là do ma bắt thật rồi”.

Họ đâu biết, phá một vụ án ở rẻo cao là chạm vào từng lớp đất đá cố kết từ bao đời mê tín và nỗi sợ truyền kiếp. Dân bản nhìn Công an như những người khách lạ, đến rồi đi, chẳng để lại gì ngoài một lời hứa chưa trọn. Họ không hiểu, mà cũng chẳng muốn hiểu, những gian nan của một cuộc điều tra nơi biên viễn không lời.

*

Tài liệu điều tra được chuyển giao cho Công an xã Pá Hu - nơi một tổ Cảnh sát chính quy đang bám địa bàn. Trung úy Hoàng là người trầm tĩnh, kiệm lời, nhưng đã xung phong nhận “ôm” lại vụ này. Anh đọc đi đọc lại từng biên bản ghi lời khai, từng sơ đồ, dòng nhật ký điều tra... như một người lần mò trong mê lộ. Và rồi, sau nhiều đêm lặng thinh bên bếp lửa, Hoàng bàn với Thiếu tá Thành, Trưởng Công an xã: “Muốn tìm ra sự thật, phải sống như một người bản. Phải cắm thật sâu”.

Ban đầu Thành có chút do dự, bởi hình sự tỉnh tinh nhuệ là thế mà vào làm án còn không ra, nói gì đến cấp xã. Nhưng rồi sau những lập luận đầy tính thuyết phục của Hoàng, anh gật đầu đồng ý.

Và thế là Hoàng cùng chiến sĩ trẻ tên Thuận "khăn gói quả mướp" hướng lên Pá Thèn. Họ đi bộ gần một ngày đường, băng qua rừng rậm, vượt suối cạn, qua những dốc đá dựng đứng như vách tường để đến với bản làng heo hút cuối cùng ấy.

Pá Thèn - trong con mắt người dưới xuôi - là nơi thâm sơn cùng cốc, xa cả ánh mặt trời khi đông về. Nhưng với tội phạm ma túy, đây lại là con đường mang về sự giàu có. Bởi từng lối mòn xuyên biên giới đã từng nuốt chửng biết bao chuyến hàng trắng. Có người đã đo độ "nóng" của tội phạm ma túy ở vùng này bằng số hộ gia đình có người đi tù, chết tiêm chích, hoặc biến mất không dấu vết. Có bản, hơn một nửa đàn ông đang lĩnh án, số còn lại thì... đang nghi ngờ.

Khi đi ngang qua vách đá phía sau nhà Trưởng bản Sính, Hoàng thấy có một dãy ký hiệu lạ vẽ nguệch ngoạc trên đó. Người Mông bảo đó là bùa giữ đất. Nhưng theo hiểu biết của anh - đó có thể là một thứ ngôn ngữ cổ, dùng để truyền tin. Trong một số bản báo cáo về đường dây vận chuyển ma túy trên rẻo cao mà anh được tiếp cận, dường như đã có những mô tả về kiểu ký hiệu này.

Lẽ thường, cán bộ lên bản, sẽ vào liên hệ ăn ở tại nhà Trưởng thôn. Lựa chọn này vì nhiều lẽ. Trước tiên là vì họ là cán bộ thôn bản nên nắm được nhiều thông tin về con người, quan hệ, địa bàn đang cần nghiên cứu. Thứ nữa, để đảm nhiệm được chức vụ này ở cơ sở, thường phải là người có uy tín, đứng đầu các họ tộc lớn. Một lời họ nói ra, như quân lệnh, thường được dân răm rắp tuân phục. Nên, nếu thông qua họ, cán bộ sẽ dễ truyền đạt ý kiến của mình với mọi người.

*

Đúng như mường tượng trước đó của Hoàng, ông Sính là người dễ gần, có vẻ thiện cảm với cán bộ. Mới gặp nhưng ông đã vồn vã mời họ ở lại nhà, sai cô Páng - con gái út bắt gà làm cơm uống rượu.

Vẻ đau buồn vẫn vương trên khóe mắt cô gái Mông sau vụ mất tích đột ngột của chồng chưa cưới. Cô lặng câm như con rùa trong bếp, không nói gì, chỉ khẽ gật đầu chào khách lạ. Khi nghe ông Sính ngậm ngùi kể câu chuyện của Páng, Hoàng chợt hiểu về nỗi buồn thương trên khuôn mặt cô. Có điều lạ là A Cở - em trai Páng - một cậu bé chừng mười lăm, bị câm nhưng nét mặt khá khôi ngô - rất chăm chú nhìn Hoàng ngay từ khi mới đến.

Trong bữa cơm đầu tiên ở bản, ông Sính mang rượu ngô tự nấu, hạ bát mời Hoàng như khách quý, lại đùa: “Cán bộ mà thích, tôi gả luôn con Páng cho!”.

Cơm nước xong, ông nhiệt tình dẫn đường cho họ đi ra nơi phát hiện vết máu tháng trước. Lúc này cỏ đã mọc rậm rì, những chứng tích của nghi án đã không còn.

Với vẻ mặt đầy u uẩn, ông ngậm ngùi kể rằng coi Páo như con, rất mong vụ mất tích của anh được làm sáng tỏ.

*

Gần một tuần trôi qua, hàng ngày cơm rượu với chủ nhà, lúc rỗi đi quanh xóm tạt vào các bếp ngó nghiêng, trò chuyện với người dân. Nhưng rồi Hoàng cũng như "húc đầu vào đá", khi mà mọi người đều im lặng, lảng tránh mọi câu hỏi liên quan đến Páo - như thể những trận mưa rừng đã gột sạch hình ảnh của anh trong trí nhớ. Hiếm lắm mới có người nói về chủ đề này. Nhưng đó lại là thầy mo Hảng A Dơ. Ông già người bẩn cáu kẹ, ánh mắt hoang dại như sói rừng luôn miệng quả quyết Páo đã bị ma rừng bắt đi.

Những ngày ở nhà ông Sính, tổ công tác gần như chẳng trò chuyện được với ai, ngoài ông trưởng bản. Vợ con ông như là không biết tiếng Kinh, họ lầm lũi làm việc, không hề có biểu cảm gì trước khách lạ.

Duy có một người - thằng A Cở - đứa bé không nói gì nhưng ánh mắt luôn nhìn Hoàng như có điều muốn kể. Ấy vậy mà những lúc Hoàng giúp nó đẽo con quay gỗ ổi, hay đưa gói bánh bích quy, lúc ngồi bên bếp lửa nghe nó ú ớ điều gì đó... thì nó vẫn lấm la lấm lét như là sợ ai đó nhìn thấy mình đang chơi với anh Công an.

Điều ấy khiến Hoàng để tâm. Nhưng vẫn chỉ là những linh cảm mơ hồ. Thằng bé mất khả năng nói thành tiếng, chỉ ú ớ những câu vô nghĩa nên anh chơi với nó không phải vì mong cầu nhận được thông tin gì có giá trị. Chỉ giản dị là tình cảm của một người lính khi đến với dân, chia sẻ tình thương với một cậu bé chẳng may bị tật nguyền. Ấy vậy mà tình cảm của nó với anh Công an lớn dần theo từng ngày. Bằng chứng là ánh mắt nó như reo lên khi bóng anh thấp thoáng nơi bậu cửa. Lâu lắm rồi, chẳng có ai chơi với nó - ngoài anh.

Chiều ấy, ông Sính đi vắng còn vợ ông và cô Páng đang trên nương trỉa bắp, Hoàng trở về nhà sau lúc xuống dân mà chẳng thu được tin tức gì. Mệt mỏi, uể oải, anh định lên cái phản gỗ chợp mắt cho lại sức thì thằng Cở bỗng nhìn anh chằm chằm, lạ lẫm. Mắt sáng rực, như muốn nói điều gì đó - rồi nó tiến đến, kéo tay anh dẫn ra hè sau. Nhìn trước ngó sau không thấy ai, nó ngồi bệt ra đất, cầm que vẽ nguệch ngoạc xuống nền cái gì đó.

Ban đầu, Hoàng lơ đãng nhìn theo nét vẽ, nhưng rồi những thứ hiện ra trên nền đất sau khi bức tranh hoàn chỉnh, đã làm anh chú ý. Trong hình là phác thảo bốn người: một bị trói tay, hai người bên cạnh cầm dao, kéo người bị trói đi, một người chống nạnh đứng nhìn.

Nhìn vẻ mặt còn ngơ ngác của Hoàng, Cở lại dẫn anh ra đống gỗ phía sau chuồng ngựa. Tại đó, có một đoạn củi cùng một con dao nhọn còn dính vết màu nâu sẫm. Qua vài mô tả bằng tay chân của Cở, Hoàng giật mình...

Một linh cảm bất ngờ nảy sinh trong anh: phải chăng thằng bé là nhân chứng của một tội ác, có khi nào lại liên quan đến vụ mất tích của Páo không nhỉ? Nhưng vì sao? Hay Páo chết vì đã nhìn thấy điều không nên thấy và ai đó đã khiến cậu ta vĩnh viễn không thể kể lại.

Việc thằng Cở biết chuyện này cho thấy sự việc có thể đã diễn ra đâu đây, chưa biết chừng mà ở ngay tại nhà nó. Và nếu vậy, thì kẻ liên quan có thể chính là ông trưởng bản! Bao câu hỏi, giả thuyết vụt hiện lên dưới mái tóc đã khét mùi nắng gió miền sơn cước.

*

Cuộc hội ý giữa Hoàng và Thuận diễn ra sau đó, bên bờ suối vắng. Họ bắt đầu xâu chuỗi, đánh giá lại tất cả những biểu hiện của ông chủ nhà từ hôm đặt chân đến. Những lần dẫn anh em xuống dân, ông Sính thường nói gì đó rất dài với người của mình trước khi dịch cho họ nghe những điều cán bộ muốn hỏi. Rồi những buổi tối ông ta rời nhà vào lúc rất khuya với thái độ khả nghi mà họ vô tình nhìn thấy.

Tại Công an xã, Thành nhận được cuộc gọi báo cáo tình hình của tổ cắm bản. Một kế hoạch tác chiến phối hợp trong - ngoài được đặt ra. Trước mắt, nhóm của Hoàng cứ giả như chưa biết chuyện gì, nhưng những đồ vật nghi là vật chứng vụ án giấu phía sau chuồng ngựa đã được lấy bí mật đưa đi kiểm tra rồi trả lại đúng chỗ.

Kết quả giám định mẫu chất màu nâu đỏ dính trên thanh củi, con dao cho thấy đó là máu người, trùng khớp ADN với người thân của Páo. Từ lúc này, mọi hành tung của lão trưởng bản được đưa vào tầm ngắm.

Đêm ấy, khi màn sương đã phủ trùm lên bản bức màn đục mờ khiến ánh trăng non đầu tháng chỉ nhỉnh hơn ánh đom đóm rừng, cửa nhà ông Sính bỗng khẽ phát ra tiếng kẽo kẹt rồi mở ra để cho một bóng đen nhanh nhẹn trườn vào bóng tối.

Ở đầu con dốc, sau mấy tiếng rúc báo yên như loài cú, có hai bóng đen khác xuất hiện. Họ bấm đèn pin soi vào chiếc lù - cở (gùi mây). Bên trong là những bọc hàng cuốn ni lông.

- Bao nhiêu?

- 30 cái!

Tiếng nói nghe quen lắm - đó là giọng Trưởng bản Sính.

Đèn pin soi vào chiếc ba lô ông Sính vừa hạ xuống, bên trong đầy ắp những cọc tiền đô. Hai bên trao đổi gùi hàng và ba lô rất nhanh. Đúng lúc định rời đi thì có tiếng quát đanh gọn vang lên:

- Đứng im, giơ tay lên! Các anh đã bị bắt!

Người hô chính là Hoàng. Những họng súng đen ngòm lăm lăm chĩa về khía trước khiến ba cái bóng bất động, ngoan ngoãn chịu khóa tay.

*

Tại Cơ quan điều tra, mọi việc nhanh chóng được làm rõ. Chẳng ai ngờ, người đàn ông đạo mạo, được mọi người kính nể ấy, lại là mắt xích then chốt trong đường dây mua bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia.

Với vị thế trưởng bản, trưởng tộc, Sính đã khống chế dân, lôi kéo nhiều nam giới vào đường dây vận chuyển hàng cấm cho mình. Đồng thời, lão tận dụng lợi thế cán bộ cơ sở chủ động đón tiếp các đoàn cán bộ xuống công tác, để nắm bắt tình hình, điều hướng hoạt động nhằm giữ gìn sự an toàn của vỏ bọc.

Cuộc khám xét khẩn cấp nhà Sính diễn ra lúc rạng sáng, đã thu về những vật chứng của vụ án giết người. Từ đây, số phận của Páo được làm sáng tỏ.

Một lần trở về từ nhà bạn gái, Páo đã tình cờ chứng kiến cuộc giao dịch ma túy của Sính và đồng bọn từ bên kia biên giới. Những nghi vấn về hành động mờ ám của ông trưởng bản sau đó được anh chàng thật thà kể với Páng bên bếp lửa. Chẳng ngờ, đôi mắt cú vọ của Sính đã trông thấy, nghe được những gì họ trao đổi.

Lo sợ lớp mặt nạ bị gỡ xuống, Sính đã sai hai thằng đàn em phục kích, tấn công anh lúc ra về. Khi Páo đã nằm bất động bên vũng máu, một đứa chạy vào nhà bảo Sính. Lão tất tả chạy ra xem mà không ngờ có một bóng người nhỏ bé bám theo phía sau...

Sau khi tính toán, lão bảo đàn em trói Páo lại, khiêng ra miệng vực mà vất để phi tang, sau đó tung tin ma rừng bắt người để lý giải cho sự mất tích bí ẩn của anh. Chính lão dùng thầy mo Hảng A Dơ để gieo lời nguyền lên bản, khiến dân sợ hãi, không ai dám hé răng.

Chỉ có một điều lão không tính đến - những đồ vật mà đám đàn em dùng đánh chết Páo - đã được cậu bé câm lén nhặt về, giấu sau chuồng ngựa.

Không ai hiểu được động cơ của nó khi làm việc này - nhưng dường như, mọi tội ác - đều để lại những manh mối không ngờ. Thi thể của Páo được tìm thấy dưới đáy vực sâu, tuy đã phân hủy nhưng đủ sức mạnh tố cáo tội ác của lão trưởng bản.

*

Khi vụ án khép lại, tiết trời cũng độ xuân sang. Mưa bụi giăng bảng lảng trong sương như tấm khăn voan phủ lên mái ván thông cũ kỹ của bản làng rẻo cao. Cây mận trước cổng nhà lão Sính chớm nụ trắng muốt, run run trong gió mỏng.

Từ hồi bố đi tù, sáng nào thằng Cở cũng ra bờ suối. Vẫn đôi chân trần, dáng đi xiêu vẹo, nó lặng lẽ nhặt đá cuội, rì rầm những âm thanh không thành tiếng. Rồi trên nền cát ẩm ven bờ, nó lúi húi vẽ. Khi thì vẽ một con quay, khi thì một ngọn lửa, có hôm lại là dáng người đang ngồi nhóm bếp, đôi mắt sáng như sao sớm. Không ai hiểu hết hình vẽ của nó, nhưng dân bản bảo: đó là người đã thắp lửa trở lại trong mắt Cở.

Người ấy từng đẽo cho nó con quay bằng gỗ ổi, từng xé bánh chia đôi, từng ngồi bên bếp lửa lắng nghe nó ú ớ những điều chỉ mình nó hiểu. Người ấy không cần nó nói, chỉ cần ánh mắt.

Người ấy - là Công an.

Là ánh sáng cuối cùng chiếu xuyên qua lớp sương mù dày đặc của mê tín và nỗi sợ. Là niềm tin mới - được khơi dậy bằng sự kiên trì, nhân hậu và lòng quả cảm. Và cũng là dấu chấm lặng cho một bi kịch đã hóa đá giữa đại ngàn.

Hà Nội, 8/6/2025

Truyện ngắn của Đào Trung Hiếu

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/truyen/nguoi-khong-noi-i772201/
Zalo