Ngọn lửa Bắc Sơn

Lương Văn Tri đứng lặng người trên con dốc dẫn vào Khuổi Nọi. Gió núi đầu xuân phả vào mặt anh hơi lạnh, mùi khói bếp, mùi lá mục và mùi đạn thuốc lẩn khuất trong không gian, hòa quyện thành một mùi rất riêng của vùng đất kháng chiến. Anh siết chặt tay vào chiếc túi vải đeo bên sườn, ánh mắt dõi về dãy núi mờ xa, nơi giấc mơ về một chiến khu vững mạnh đang dần thành hình.

Khu di tích Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ - Ảnh: VŨ NHƯ PHONG

Khu di tích Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ - Ảnh: VŨ NHƯ PHONG

Bắc Sơn, mùa xuân năm 1941. Nơi đây vừa gượng dậy sau cuộc khởi nghĩa. Dân làng chưa kịp mừng đã bị thực dân Pháp khủng bố trở lại. Bản làng bị đốt trụi, ruộng nương bỏ hoang. Đội du kích rút vào rừng, chia năm xẻ bảy. Về đây lúc này không phải để ra trận đánh lớn, mà là để vun lại đốm lửa âm ỉ, giữ cho nó không tắt trong bão giông.

Trung ương đã cử anh lên, không chỉ để làm Chỉ huy trưởng Đội du kích Bắc Sơn, duy trì lực lượng vũ trang mà để bắt tay vào nhiệm vụ lập căn cứ địa lâu dài. Khuổi Nọi sẽ là trung tâm. Võ Nhai, Phú Thượng, Tràng Xá… sẽ là vòng cung bảo vệ. Một chiến khu du kích. Một “vùng tự do” trong lòng địch. Đường hướng là như vậy. Nhưng Tri biết, đây là nhiệm vụ mà sinh mệnh của anh có thể sẽ phải trả giá.

Người dẫn đường là Thín, một thanh niên người Dao gầy như que củi, vai vác khẩu súng kíp, chân bước thoăn thoắt như con dê núi. Suốt dọc đường, Thín kể về những trận càn quét của Pháp, những người dân bị đốt nhà, những người bị giết, bị bắt đi rồi chẳng bao giờ quay trở lại.

Tri lặng im nghe, lòng nặng trĩu. Nhưng không thể hứa hẹn gì lúc này. Không phải bằng lời.

Đến nơi, trời đã chạng vạng. Sau vạt rừng rậm, một cụm lán nhỏ nằm nép bên suối, được ngụy trang bằng lá chuối và thân cây mục. Bên trong, những gương mặt đen sạm ngẩng lên nhìn người chỉ huy mới. Không ai vỗ tay. Không tiếng hô chào. Chỉ có ánh mắt, cái nhìn vừa dò xét vừa hy vọng.

Tri đứng trước họ, áo dính bùn đất, giọng nói dõng dạc nhưng không lên gân:

“Tôi là Lương Văn Tri, từ Trung ương cử lên, nhận nhiệm vụ chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn. Tôi không mang nhiều súng ống, cũng chẳng mang theo phương án thần thánh nào. Nhưng tôi mang theo một điều: lòng tin của Đảng và con đường đúng đắn để chúng ta đánh lại kẻ thù, bảo vệ bản làng.”

Không ai đáp lời. Nhưng những đôi vai chùng xuống, những bàn tay siết lại chặt hơn vào báng súng, đủ để anh hiểu họ đã sẵn sàng.

Ngay ngày hôm sau, Tri bắt đầu nhiệm vụ huấn luyện. Không có sân tập, anh chia nhóm luyện trong rừng, tận dụng từng khoảng trống giữa cây rậm để dạy cách di chuyển, phục kích, giữ bí mật. Về chính trị, anh giảng giải về con đường cách mạng của Đảng, về mục tiêu giành độc lập là để có cơm no áo ấm, có cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người, không kể giàu, nghèo.

Buổi tối, anh viết tay bản tin Du Kích bằng than củi và mảnh giấy vụn. Những dòng chữ lem nhem nhưng đầy nhiệt huyết được chuyền tay giữa các lán trại, nhen lên ngọn lửa của khát vọng tự do. Và từ Khuổi Nọi, những mạch máu cách mạng bắt đầu lan ra các ngả: sang Võ Nhai, xuống Đồng Hỷ, vượt qua Na Rì. Một chiến khu hình thành với những bước đi âm thầm mà chắc chắn.

***

Vào một buổi sáng mùa xuân, rừng Khuổi Nọi bất ngờ đón những vị khách đặc biệt. Một đoàn người lặng lẽ đến nơi. Người dẫn đầu dáng cao gầy, ánh mắt sắc như dao núi. Đó là Trường Chinh. Cùng đi có Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh, đồng chí San (đại diện Xứ ủy Trung Kỳ), đồng chí Thảo (đại diện Xứ ủy Nam Kỳ) … Họ đang trên đường đến Cao Bằng dự Hội nghị Trung ương Tám và Khuổi Nọi do Lương Văn Tri chỉ huy, là điểm trung chuyển bí mật để vượt qua sự truy lùng của Pháp - Nhật.

Đồng thời, Hoàng Văn Thụ phổ biến cho Ban Chỉ huy du kích quyết định của Trung ương về việc đổi tên, phát triển Đội du kích Bắc Sơn thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Đồng chí Lương Văn Tri được Trung ương chỉ định làm Chỉ huy trưởng của Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.

Trong buổi gặp mặt ấy, lời dặn của Hoàng Văn Thụ đọng lại như nhát dao khắc vào đá: “Bắc Sơn không được tắt lửa. Đây sẽ là hình mẫu đầu tiên của chiến khu cách mạng.”

Nhiệm vụ đầu tiên của Đội Cứu quốc quân, một nhiệm vụ thầm lặng mà sống còn, chính là dẫn đường bí mật và bảo vệ tuyệt đối an toàn cho đoàn cán bộ cấp cao của Trung ương Đảng vượt qua núi rừng hiểm trở, đến Cao Bằng dự Hội nghị Trung ương Tám - nơi sẽ xác lập những quyết sách chiến lược cho con đường giải phóng dân tộc. Lương Văn Tri được giao toàn quyền chỉ đạo. Trong điều kiện vô cùng khó khăn, nguy hiểm, anh chọn ra những chiến sĩ tinh nhuệ nhất - những người dày dạn kinh nghiệm, thông thạo từng lối mòn, khe núi giữa Lạng Sơn và Long Châu - để phụ trách việc đưa đường. Đoàn cán bộ của Trung ương Đảng đến Cao Bằng an toàn.

Ngay sau đó, có tin mật báo, bọn mật thám đang lập chốt, giăng bẫy đón lõng những người trở về từ Pác Bó sau hội nghị. Chỉ thị được ban xuống: “Bằng mọi giá, phải bảo vệ an toàn cán bộ Trung ương.”

Nhiệm vụ quan trọng này cũng chính là sinh mệnh chính trị của Đảng. Phải cân não với địch. Lương Văn Tri nhiều đêm không ngủ. Mỗi lối đi, mỗi điểm dừng chân, anh đều trực tiếp nắm tình hình, chỉ đạo sát sao, chớp thời cơ. Và rồi, như một điều kỳ diệu của trí tuệ và lòng quả cảm, đoàn cán bộ Trung ương đã vượt qua mọi vòng vây của địch, trở về an toàn trong sự che trở của rừng xanh và lòng người. Không một tiếng súng nổ, không một dấu vết để lại, chỉ có những giọt mồ hôi mặn chát rơi xuống, thấm vào đất.

Lúc này theo yêu cầu của tình hình mới, Trung ương quyết định kiện toàn Ban Chỉ huy: Đồng chí Phùng Chí Kiên được cử làm Chỉ huy trưởng Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, kiêm Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Đồng chí Lương Văn Tri đảm nhận nhiệm vụ Chính trị viên.

***

Từ căn cứ Khuổi Nọi, đoàn cán bộ Trung ương tiếp tục rút về xuôi an toàn

Bị hụt mất những “món hàng” béo bở, bọn Pháp cuồng điên. Chúng tiến hành khủng bố, bắt bớ, tra khảo, chém giết tất cả những ai bảo vệ cách mạng. Chúng mở nhiều đợt càn quét vào căn cứ du kích để tiêu diệt Cứu quốc quân. Máu rơi. Lửa cháy đỏ rừng.

Trước tình thế nguy cấp, một cuộc họp quan trọng được triệu tập trong lán. Ánh đèn dầu chập chờn. Những mái đầu im lặng cúi xuống bản đồ vẽ tay. Một quyết định được đưa ra và thống nhất. Đó là, rút toàn bộ Đội Cứu quốc quân ra khỏi Bắc Sơn theo hai hướng. Một phân đội rút về biên giới Việt - Trung theo hướng Lạng Sơn. Một phân đội rút lên căn cứ Cao Bằng để bảo toàn lực lượng, tránh những tổn thất do địch gây nên trong kế hoạch khát máu của chúng.

Lương Văn Tri chỉ tay vào rìa bản đồ, nơi ghi “Na Rì - Cao Bằng”:

“Tôi và Phùng Chí Kiên sẽ cùng nhóm thứ nhất đi theo đường này. Nhóm còn lại đi hướng Lạng Sơn, nếu bị chặn thì rút về Long Châu. Ai sống sót thì tìm về Cao Bằng. Không được để lực lượng tan vỡ tại chỗ.”

Không ai nói gì. Họ chỉ gật đầu. Bởi đây không phải lúc để thắc mắc, mà là lúc để chia nhau sống chết.

Trời đổ mưa. Đêm đen như mực. Đoàn đi hướng Cao Bằng lặng lẽ băng rừng vượt núi, mang theo mấy khẩu súng và một túi đạn nặng. Đi được ba ngày, họ tới chân núi Na Rì. Lúc này tất cả đã thấm mệt. Hà Khai Lạc dẫn mọi người tìm vào nhà một người bạn cùng đinh khi xưa, để xin bát cơm nóng. Không ngờ người bạn cùng đinh nối khố thuở xưa của Hà Khai Lạc nay ăn bả thực dân, đã lên Chánh tổng. Kẻ phản bội báo lính dõng. Tình thế bất ngờ buộc phải nổ súng, phá vòng vây để thoát.

Lương Văn Tri nhận định, hướng hành quân đã bị lộ, từng bước tiến bây giờ sẽ trở nên vô cùng nguy hiểm. Cả nhóm theo hướng Cao Bằng vẫn tiếp tục hành quân, tránh các lối mòn, băng rừng mà đi. Nhưng bọn địch huy động binh lính phục kích mọi ngả đường. Sau mười ngày rời căn cứ, thì cả nhóm đụng độ một tốp lính Pháp phục kích ngay bên khe suối. Tiếng súng nổ chát chúa. Rừng núi rung chuyển. Máu văng lên vách đá. Phùng Chí Kiên hy sinh.

Lương Văn Tri bị thương nặng, anh nói với đồng chí của mình, cũng là mệnh lệnh:

“Hãy để tôi ở lại đây. Các đồng chí tiếp tục hành quân, vượt mọi khó khăn để đến được Cao Bằng, tìm về với Đảng. Tôi chỉ tiếc một điều là chưa được gặp mặt lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Nhưng hãy nói với Đảng, với lãnh tụ, tôi tự nguyện và sẵn sàng hy sinh…”

Anh cố lết vào lùm cây, lấy súng bắn trả để yểm trợ đồng đội. Nhưng lũ lính đã ập đến, đạp gót giày lên vết thương. Một thằng cúi xuống, cười khẩy:

“Mày là thằng chỉ huy?”

Tri không đáp. Tâm trí anh vẫn hướng về đồng đội. Họ đã kịp lẩn vào rừng. Và họ đã đi thoát. Nhất định phải thoát!...

***

Trời Cao Bằng tháng Chín không có gió. Mây đọng lại trên đỉnh núi như một nỗi ngờ vực không tan. Trong phòng giam ẩm thấp của nhà lao, Lương Văn Tri nằm nghiêng trên chiếc chiếu rách, mặt trắng bệch vì mất máu, miệng khô khốc, nhưng mắt vẫn mở to. Thức để nghe. Để không bỏ sót một âm thanh nào từ ngoài song sắt vọng vào - tiếng lính gác thay ca, tiếng cùm va sắt, và nhất là, tiếng bước chân của những người đồng chí có thể còn đang sống.

Chúng đã thẩm vấn anh suốt nhiều ngày. Tra tấn bằng cả đòn roi lẫn những lời dụ dỗ trơn tru: “Chỉ cần khai, chúng tao cho về Long Châu. Có cả thuốc, có cả lương.”

Anh cười, rồi ho bật máu:

“Các người giỏi dùng súng đạn để cướp, nhưng chưa từng hiểu lòng người chiến đấu để gìn giữ. Chúng tôi chiến đấu vì những điều lớn lao hơn nhiều!...”

Từ lần tra tấn đó, anh không còn đứng lên được nữa. Thân thể anh, từng được rèn giũa ở trường Hoàng Phố, từng trèo đèo vượt suối không ngừng, giờ đây bị giam trong hình hài rớm máu, gầy gò. Nhưng ngọn lửa trong trái tim anh không tắt.

Đêm cuối cùng, anh gọi cai ngục, nhờ đưa giúp một mẩu giấy ra ngoài. Tên lính gác định xé, nhưng nhìn ánh mắt anh, nó khựng lại. Trong mắt ấy không có van xin, không có lụi tàn, chỉ ngời lên một niềm tin mãnh liệt mà yên ổn lạ thường, như người đã nhìn thấy phía sau bức màn tử thần là cả một rừng cờ đỏ.

Mẩu giấy viết nguệch ngoạc, chỉ vài dòng:

“Báo với các đồng chí: tôi không sống được nữa. Nhưng căn cứ phải giữ. Cứu quốc quân phải sống. Phải giữ lấy ngọn lửa Bắc Sơn.”

Sáng ngày 29 tháng 9 năm 1941, đồng chí Lương Văn Tri hy sinh trong nhà giam Cao Bằng. Không người thân bên cạnh. Không tang lễ. Chỉ có bức tường vôi ẩm mốc và một khoảng trời xanh vắt trên ô gió nhỏ xíu, nơi lần cuối anh nhìn ra, như trông thấy Tổ quốc mình vẫn đang lớn lên từng ngày.

Nhiều năm sau, khi đất nước bước vào cao trào toàn quốc kháng chiến, rồi Điện Biên Phủ, rồi giải phóng, người ta nhắc đến Lương Văn Tri không bằng danh hiệu, mà bằng tấm gương. Anh là người con dân tộc thiểu số đầu tiên được Đảng cử đi đào tạo quân sự ở Trung Quốc, là hạt giống gieo mầm chiến khu đầu tiên của cả nước. Tên anh được đặt cho trường học, cho đường phố, nhưng có lẽ, nơi anh sống lâu nhất… là trong lòng những người từng nghe câu chuyện về Bắc Sơn, về Khuổi Nọi, về ngọn đèn dầu cháy trong lán tre giữa mùa Thu năm ấy.

Truyện ngắn của VI THỊ THU ĐẠM

Nguồn Lạng Sơn: https://baolangson.vn/ngon-lua-bac-son-5056092.html
Zalo