Ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Ngày 28/7, Bộ Ngoại giao tổ chức Hội thảo khoa học: Ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh: 80 năm tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Phạm Hải.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Phạm Hải.

Nhắc đến 80 năm ngoại giao Việt Nam đồng hành cùng dân tộc, ông Nguyễn Dy Niên - nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao kể lại, ngành ngoại giao được Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Đảng chính là “tư lệnh đầu tiên” của ngành ngoại giao trên cương vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Theo ông Niên, lúc bấy giờ, Bác không phụ trách các ngành khác mà chỉ phụ trách ngành ngoại giao vì lúc đó cách mạng thành công, vũ khí ngoại giao là vũ khí duy nhất để có thể hóa giải những vấn đề đối ngoại của đất nước lúc đó.

Ông Niên nhớ lại, khi cách mạng tháng Tám mới thành công, lúc đó có phát xít Nhật, lính Pháp, lính Anh và quân Tưởng Giới Thạch. Làm thế nào trong một lúc đối phó với 4 kẻ thù lực lượng vũ trang thì chỉ có ngoại giao mới có thể hóa giải được điều này. Bởi lúc đó trong tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ có hơn 30 chiến sĩ giải phóng quân, và lực lượng dân quân tự vệ vẫn còn yếu. “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy trong tình hình nguy cấp đó chỉ có ngoại giao mới có thể giải quyết được nên Bác đã có những quyết định hết sức táo bạo. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 đã đẩy hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ra khỏi đất nước ta và đây là một thành công rất lớn” – ông Niên nói.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định Sơ bộ Pháp -Việt để giành thời gian, “câu giờ” chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu. Nhờ nghệ thuật ngoại giao của Bác đã giúp chúng ta thoát được tình thế vô cùng nguy hiểm, trong lịch sử dân tộc gọi là thế “nghìn cân treo sợi tóc”. Đây cũng mốc son vô cùng quý giá và đặc biệt trong ngành ngoại giao Việt Nam.

Từ đó khởi nguồn cho các hoạt động ngoại giao, đánh bại mọi âm mưu của địch, cho đến khi chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu đã khiến Pháp buộc phải ký Hiệp định Genever năm 1954, đưa ngoại giao Việt Nam bước ra thế giới, để thế giới biết đến cuộc kháng chiến chính nghĩa của Việt Nam.

Ông Niên nói: Ngay lúc đó, Bác và trung ương Đảng đã thấy ý đồ rất sớm của Mỹ thay thế Pháp trong cuộc chiến tranh này. Nên sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác đã nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta đã thắng Pháp rồi thì bây giờ chú phải chuẩn bị để chúng ta đấu tranh thắng Mỹ. Phải chiến thắng thì ngoại giao mới thắng được. Do đó các chiến thắng quân sự là điều kiện để chúng ta ký kết ngoại giao. Và thắng lợi của ngoại giao đã góp phần quyết định cho thắng lợi Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Ông Hoàng Bình Quân, nguyên Trưởng ban Đối ngoại Trung ương nhìn nhận, thời điểm hiện nay là dấu mốc lịch sử quan trọng của ngoại giao Việt Nam. Trong 80 năm qua, “hai người anh em” là Bộ Ngoại giao và Ban Đối ngoại Trung ương đã luôn sát cánh với nhau viết nên trang sử vàng của ngoại giao nước nhà. Đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc thì 2 người anh em đã về chung một nhà. Trong đó mấu chốt là đối ngoại của Đảng đã định hướng ngoại giao quốc gia. Đảng đã giữ vai trò tiên phong trong quan hệ với các Đảng trên thế giới. Trong kháng chiến chống Mỹ chúng ta đã nhận được sự ủng hộ quốc tế rất lớn từ các Đảng trên thế giới, nhất là các Đảng lớn.

“Do đó trong bối cảnh hiện nay đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc chúng ta cần vận hành nhuần nhuyễn 3 mặt trận là: đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân để phát huy sức mạnh tổng hợp vững như “kiềng 3 chân” để đưa đất nước vươn mình tiến lên cùng nhân loại” – ông Quân nói.

Theo bà Tôn Nữ Thị Ninh - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh là cha đẻ và hình mẫu chỉ đường cho ngành ngoại giao Việt Nam. Hành trình của Bác ra đi tìm đường cứu nước, bước ra thế giới và đi tìm hiểu xã hội của các nước đối phương. Qua đó nắm bắt xã hội, kêu gọi sự ủng hộ của người dân nước đó nhằm phát huy sức mạnh nội lực và ngoại lực của Việt Nam. Đến nay Việt Nam đã sớm chủ động tiếp cận với thế giới trên con đường hội nhập và phát triển.

Bà Nguyễn Phương Nga - nguyên Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho rằng, đối ngoại nhân dân là nét độc đáo, tài sản vốn quý của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã trực tiếp tổ chức đối ngoại nhân dân. Nhờ đó, đối ngoại nhân dân có đóng góp to lớn vào đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. “Những bạn quốc tế sát cánh cùng Việt Nam, những người lính Pháp biểu tình chống lại việc chuyển vũ khí sang Đông Dương, hàng ngàn người Mỹ biểu tình chống chiến tranh tại Việt Nam chính là “chiến tranh ngay chính trong lòng nước Mỹ”. Đối ngoại nhân dân đã làm nên những thành công lớn chưa từng có” – bà Nga nói.

Phát biểu tại hội thảo, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh: Ngành ngoại giao có một vinh dự vô cùng đặc biệt là được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, rèn luyện và dìu dắt trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên. Kế thừa truyền thống ngoại giao của ông cha qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dưới ánh sáng của Đảng và Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh suốt chặng đường 80 năm qua, ngoại giao Việt Nam đã luôn tận tụy phụng sự quốc gia, dân tộc, có nhiều đóng góp xứng đáng vào những thành tựu chung, có ý nghĩa lịch sử của đất nước.

Phó Thủ tướng cũng chỉ rõ, ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng ngoại giao như một vũ khí sắc bén để thêm bạn bớt thù, phân hóa hàng ngũ đối phương, giữ vững chính quyền non trẻ, tranh thủ thêm thời gian và lực lượng cho cuộc trường kỳ kháng chiến. Trong thời gian đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cùng với các mặt trận chính trị và quân sự, ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Ngoại giao đã góp phần cụ thể hóa các thắng lợi trên chiến trường thành chiến thắng trên bàn đàm phán, chấm dứt chiến tranh.

Nhìn lại chặng đường vẻ vang đã đi qua, Phó Thủ tướng cho rằng, chúng ta càng nhận thức rõ về sứ mệnh nặng nề nhưng cũng đầy vinh quang của ngoại giao Việt Nam trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đó là phải tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong duy trì môi trường hòa bình, ổn định, thu hút các nguồn lực và điều kiện thuận lợi bên ngoài đóng góp đắc lực vào việc thực hiện các mục tiêu chiến lược của đất nước, đặc biệt là các mục tiêu phát triển 2030 và 2045 mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra.

H.Vũ

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/ngoai-giao-viet-nam-trong-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-10311489.html
Zalo