Nghị quyết số 71-NQ/TW: Cú hích lịch sử và tư duy kiến tạo cho giáo dục
Giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu. Chúng ta đã có nhiều nghị quyết quan trọng, tạo ra những chuyển biến tích cực cho ngành.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22-8-2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo thực sự là một văn kiện mang tính lịch sử, một “cú hích” với sức mạnh cộng hưởng từ tư duy đột phá, quyết tâm chính trị mạnh mẽ và hệ thống giải pháp toàn diện, vượt trội.

Nghị quyết 71-NQ/TW được kỳ vọng mở ra một kỷ nguyên mới cho nền giáo dục Việt Nam. Ảnh: Nguyên Sa
Tháo gỡ những “điểm nghẽn” cố hữu, mở ra không gian phát triển mới
Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém mà ngành Giáo dục đang phải đối mặt: Từ sự chênh lệch về cơ hội tiếp cận giữa các vùng miền, nhóm đối tượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo và cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, đến những căn bệnh trầm kha như tiêu cực, bệnh hình thức.
Quan trọng hơn, Nghị quyết đã đi thẳng vào gốc rễ của vấn đề, đó là “chưa nhận thức và thực hiện đầy đủ, quyết liệt quan điểm về giáo dục và đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, tư duy quản lý chậm đổi mới và nguồn lực đầu tư còn thấp, sử dụng chưa hiệu quả. Từ những nhận định thẳng thắn đó, Nghị quyết đã đưa ra những giải pháp mang tính “tháo gỡ” triệt để, có thể kể đến ba nhóm vấn đề lớn.
Một là, đột phá về nguồn lực tài chính. Lần đầu tiên, một văn kiện của Đảng đã định lượng hóa cam kết đầu tư cho giáo dục một cách vô cùng mạnh mẽ: Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Đây không còn là một mục tiêu định hướng mà là một chỉ tiêu pháp lệnh, thể hiện quyết tâm chính trị cao nhất. Điều này sẽ tạo ra một nguồn lực khổng lồ để kiên cố hóa, hiện đại hóa trường lớp, đầu tư cho các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu xuất sắc và đặc biệt là phát triển các đại học tinh hoa. Chủ trương xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia mới về hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035 chính là cơ chế để hiện thực hóa cam kết này.
Hai là, giải quyết căn cơ bài toán chính sách cho nhà giáo. Đội ngũ nhà giáo được xác định là “động lực, quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo”. Nghị quyết đã mang lại niềm vui và sự phấn khởi cho hàng triệu giáo viên trên cả nước với chính sách ưu đãi đặc thù, vượt trội: Nâng phụ cấp ưu đãi nghề đối với cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông lên tối thiểu 70% cho giáo viên, và lên tới 100% cho giáo viên ở khu vực đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là sự ghi nhận xứng đáng, là giải pháp căn cơ để nhà giáo yên tâm sống bằng lương, toàn tâm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người” và quan trọng hơn là thu hút được học sinh giỏi vào ngành sư phạm, giải quyết bài toán “đầu vào” cho chất lượng giáo dục tương lai.
Ba là, tạo ra không gian tự chủ và sáng tạo thực chất. Nghị quyết khẳng định trao quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính. Đây là một tư duy hoàn toàn mới, gỡ bỏ rào cản lớn nhất lâu nay là “tự chủ tài chính” mới có “tự chủ chuyên môn”. Khi được cởi trói, các trường đại học sẽ thực sự trở thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng và uy tín học thuật.
Đổi mới quản trị nhà trường - chìa khóa để đột phá thành công
Trong rất nhiều điểm mới táo bạo của Nghị quyết, tôi muốn dành sự phân tích sâu hơn cho một vấn đề có thể coi là “xương sống” của cải cách thể chế: Đổi mới mô hình quản trị trong các cơ sở giáo dục công lập. Đây là vấn đề gần gũi, có tác động trực tiếp đến mọi hoạt động của nhà trường nhưng cũng là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.
Nghị quyết nêu rõ: “Không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập (trừ các trường công lập có thỏa thuận quốc tế). Thực hiện bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục”. Đây là một bước đi chiến lược, thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy về quản trị giáo dục, hướng tới mục tiêu thống nhất, tinh gọn và hiệu quả.
Việc nhất thể hóa chức danh Bí thư cấp ủy và người đứng đầu (Hiệu trưởng/ Giám đốc) sẽ xóa bỏ cấp trung gian, bảo đảm quản trị tinh gọn, thống nhất, hiệu quả. Khi quyền lực và trách nhiệm được tập trung vào một người, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quyết sách phát triển của nhà trường sẽ được triển khai nhanh chóng, đồng bộ và quyết liệt hơn.
Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc triển khai các nhiệm vụ lớn và phức tạp như chuyển đổi số toàn diện, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, xây dựng các chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, hay thực hiện các dự án nghiên cứu lớn đòi hỏi một sự lãnh đạo quyết đoán, tập trung. Một “tư lệnh” duy nhất, nắm cả vai trò lãnh đạo chính trị và quản lý chuyên môn, sẽ có đủ thẩm quyền để huy động mọi nguồn lực, vượt qua sức ì và tạo ra sự thay đổi mang tính đột phá.
Cơ chế quản trị mới này, kết hợp với những cam kết nguồn lực chưa từng có, cho chúng ta niềm tin mạnh mẽ vào tương lai. Tuy nhiên, để niềm tin đó trở thành hiện thực, chúng ta phải nhìn nhận một cách nghiêm túc những bài học từ quá khứ và lường trước các thách thức trên con đường triển khai.

Nghị quyết số 71-NQ/TW đã giải quyết căn cơ bài toán chính sách, giúp các nhà giáo yên tâm cống hiến cho sự nghiệp "trồng người". Ảnh: Vũ Minh
Những thách thức trên con đường hiện thực hóa
Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là một chủ trương vô cùng đúng đắn, nhưng kết quả triển khai sau hơn 10 năm vẫn còn những khoảng cách so với kỳ vọng. Bài học lớn nhất là chủ trương đúng đắn phải đi cùng với nguồn lực cụ thể, thể chế đột phá và quyết tâm thực thi đồng bộ ở mọi cấp. Nghị quyết số 71-NQ/TW dường như đã giải quyết được các vấn đề nền tảng này, song quá trình đưa Nghị quyết vào cuộc sống vẫn tiềm ẩn bốn thách thức lớn.
Một là, nguy cơ "trên nóng, dưới lạnh" và tư duy nhiệm kỳ. Đây là thách thức kinh điển trong việc triển khai các chính sách ở Việt Nam. Các mục tiêu của Nghị quyết số 71-NQ/TW mang tầm nhìn dài hạn đến năm 2030, 2035 và 2045. Trong khi đó, lãnh đạo ở các cấp có thể có xu hướng tập trung vào các mục tiêu ngắn hạn, dễ thấy trong nhiệm kỳ của mình, thay vì kiên trì theo đuổi những cải cách nền tảng.
Hai là, năng lực và sự chuyển đổi của đội ngũ thực thi. Nghị quyết số 71-NQ/TW đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện từ tư duy đến hành động. Chính sách đãi ngộ tốt hơn là điều kiện cần, nhưng chưa đủ. Điều kiện đủ là năng lực của nhà giáo phải theo kịp yêu cầu mới: Năng lực số, năng lực ứng dụng trí tuệ nhân tạo, năng lực dạy học tích hợp. Quá trình đào tạo lại và bồi dưỡng hàng triệu giáo viên trên cả nước là một bài toán vô cùng phức tạp.
Ba là, áp lực từ tâm lý xã hội và "bệnh thành tích". Đây là một rào cản "mềm" nhưng vô cùng mạnh mẽ. Nghị quyết số 71-NQ/TW nhấn mạnh việc giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ, giảm áp lực thi cử, khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan. Tuy nhiên, chừng nào tâm lý trọng bằng cấp, danh vị trong xã hội còn nặng nề, chừng nào phụ huynh vẫn còn lo lắng về điểm số, thì những cải cách theo hướng giảm tải, tăng trải nghiệm sẽ rất khó được đón nhận.
Bốn là, rủi ro trong việc triển khai các chính sách mới, đặc thù có thể nảy sinh những vấn đề phức tạp. Nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ và các hướng dẫn chi tiết, những chính sách này có thể bị lạm dụng hoặc thực hiện sai lệch.
Nghị quyết số 71-NQ/TW đã mở ra một kỷ nguyên mới cho giáo dục Việt Nam với tầm nhìn đến năm 2045 đưa hệ thống giáo dục quốc dân đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới. Đây là một khát vọng lớn lao nhưng hoàn toàn có cơ sở. Con đường phía trước không hề bằng phẳng, nhưng những nền tảng về thể chế, nguồn lực và quyết tâm chính trị mà Nghị quyết tạo ra là vững chắc hơn bao giờ hết.
Sự thành công không chỉ phụ thuộc vào những định hướng chiến lược đúng đắn mà còn nằm ở khâu tổ chức thực hiện quyết liệt, sáng tạo của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Quyết tâm chính trị phải được chuyển hóa thành cơ chế giám sát, kiểm tra và đánh giá hiệu quả ở mọi cấp. Với tư duy kiến tạo, dám nghĩ, dám làm, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng, Nghị quyết số 71-NQ/TW sẽ đi vào cuộc sống, tạo ra một thế hệ công dân Việt Nam mới - những công dân toàn cầu mang trong mình bản sắc văn hóa và khát vọng xây dựng một đất nước hùng cường, thịnh vượng.