Nghi lễ truyền thống giữa nhịp sống hiện đại
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc gìn giữ, phát huy giá trị các nghi lễ truyền thống của cộng đồng các dân tộc được đặt ra như yêu cầu cấp thiết nhằm bảo vệ bản sắc văn hóa và tạo nền tảng phát triển bền vững. Tại tỉnh Điện Biên, với những nỗ lực nhiều năm qua, nghi lễ truyền thống của cộng đồng các dân tộc từng bước hồi sinh và được nuôi dưỡng, phát huy giá trị gắn với phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Bảo tồn dựa vào cộng đồng
Tại xã Sáng Nhè, cộng đồng người Phù Lá chiếm dân số ít, sống xen kẽ với các dân tộc Mông, Thái, Dao… Do vậy, nhiều năm qua, các nét văn hóa truyền thống của người Phù Lá bị chi phối mạnh. Đơn cử như trang phục phần lớn bà con sử dụng trong sinh hoạt thường ngày đã bị pha trộn; lễ nghi trong cưới hỏi, ma chay không còn trọn vẹn; tết cổ truyền và lễ cúng rừng, lễ xuống đồng chỉ còn trong ký ức người lớn tuổi.
Theo ông Trần Ngọc Duyên, Phó Chủ tịch xã Sáng Nhè phân tích, Lễ quét làng là một trong những nghi lễ tâm linh truyền thống đặc sắc nhất của cộng đồng người Phù Lá. Đây chính là “sợi dây” nối con người với thiên nhiên, với tổ tiên; là lời cầu ước bình yên cho bản làng. Tuy nhiên, sự thay đổi, phát triển của đời sống xã hội nhiều năm qua khiến nghi lễ này gần như không còn được thực hành.

“Nhiều thanh niên người Phù Lá không biết đến Lễ quét làng, cũng không mặn mà với văn hóa truyền thống, trong khi thế hệ am hiểu văn hóa dân tộc Phù Lá đang dần vơi đi. Việc phục dựng nghi lễ đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với cộng đồng người Phù Lá mà cả chính quyền địa phương, các cấp, ngành liên quan. Thông qua đó, nhằm khôi phục niềm tự hào, khơi dậy ý thức giữ văn hóa như giữ nhà của chính người Phù Lá” - ông Duyên cho biết.
Một điểm nhấn đáng chú ý trong việc “hồi sinh” văn hóa truyền thống người Phù Lá được triển khai thời gian gần đây đó là chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phục hồi, bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể Lễ quét làng, do Cục Văn hóa các dân tộc Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Điện Biên, chính quyền xã Sáng Nhè triển khai.
Lớp tập huấn với sự tham gia của 70 nghệ nhân và học viên từ 3 bản: Kép, Túc, Khua Trá cho thấy hướng bảo tồn “trao lại cho chính cộng đồng”. Các chuyên gia không làm thay, mà hướng dẫn cách giữ nguyên các yếu tố truyền thống khi phục dựng để văn hóa sống bằng chính đời sống của người dân, không phải bằng trưng bày trong bảo tàng.

Nghệ nhân Hù Văn Thịt, bản Nậm Kè, xã Nậm Kè thực hiện nghi thức cúng tại Tết Hoa mào gà.
Mô hình bảo tồn dựa vào cộng đồng được thể hiện rõ nét tại xã Nậm Kè, với Tết Hoa mào gà của người Cống. Đây là một trong những nghi lễ truyền thống đặc trưng của đồng bào Cống, từng có nguy cơ mai một từ nhiều năm trước. Với sự quan tâm của các cấp và ngành chủ thể, nghi lễ được phục dựng thành công và duy trì tổ chức thường niên vào đầu tháng 9 âm lịch hàng năm. Hiện nay, nghi lễ trở thành điểm hẹn văn hóa tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Cống ở Nậm Kè.
Ông Hù Văn Thịt, bản Nậm Kè là nghệ nhân người Cống, đồng thời là thầy cúng chính thực hiện các nghi thức trong phần lễ của Tết Hoa mào gà. Bởi vậy, khi chứng kiến nghi lễ này được hồi sinh và phát triển cùng đời sống cộng đồng, ông Thịt phấn khởi hơn ai hết.
Ông chia sẻ: “Với sự quan tâm của các cấp, mỗi người Cống chúng tôi cũng tự ý thức được trách nhiệm của mình trong gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, trong đó có Tết Hoa mào gà. Đây là cơ hội để tôn vinh bản sắc của dân tộc Cống, đồng thời là động lực để bà con thêm gắn bó, tiếp nối và lan tỏa văn hóa của cha ông”.

Đưa nghi lễ truyền thống “hội nhập”
Nếu như Lễ quét làng của người Phù Lá nhấn mạnh yếu tố tín ngưỡng gắn kết cộng đồng, thì Tết Hoa mào gà của người Cống lại mang nhiều sắc thái nghệ thuật trình diễn dân gian. Thực tế cho thấy, dù là nghi lễ nào đều có điểm chung nếu được trao truyền, phát huy tốt sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương theo hướng riêng, giàu bản sắc. Nhìn từ cộng đồng 2 dân tộc Cống và Phù Lá có thể thấy, bảo tồn văn hóa không chỉ là “giữ nguyên trạng”. Đó là quá trình tôn trọng giá trị truyền thống, nhưng thích ứng xu thế thời đại, tạo ra các cơ chế để người dân làm chủ di sản của mình.
Nhiều năm qua, tỉnh và ngành văn hóa đã có những bước đi cụ thể, như: Kiểm kê, lập hồ sơ khoa học, mở lớp truyền dạy, phục dựng lễ hội song song với giáo dục văn hóa địa phương, tôn vinh nghệ nhân, khuyến khích cộng đồng tham gia. Quan trọng hơn, tỉnh đã chuyển hướng từ tư duy “đem văn hóa đến cho dân” sang “để dân trao truyền văn hóa của chính họ”.

Hiện nay, đồng bào Sán Chay, bản Huổi Thanh 1, xã Nậm Kè đang nỗ lực gìn giữ văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch cộng đồng.
5 năm qua, nhiều nghi lễ truyền thống tiêu biểu của cộng đồng các dân tộc đã được bảo tồn và phục dựng, như: Lễ Tết mùa mưa (dân tộc Hà Nhì), Lễ tra hạt (Khơ Mú), Lễ mừng cơm mới (Cống), Tết té nước (Lào), Tết Nào Pê Chầu (Mông), Lễ nhảy lửa (Dao), Lễ cúng tổ tiên (Thái), Nghi lễ cầu con (Thái trắng), Lễ hội Xên bản, Lễ hội Cầu mưa...
Những nghi lễ truyền thống không chỉ là sinh hoạt tâm linh, mà còn là “bảo tàng sống” lưu giữ phong tục, trang phục, ẩm thực, nghề thủ công, tri thức canh tác và quan niệm sống của cộng đồng các dân tộc bản địa. Với hơn 20.000 hiện vật văn hóa đang được lưu giữ tại các bảo tàng và quản lý di tích trên địa bàn cùng kho tàng nghi lễ, tập quán phong phú của 19 dân tộc, Điện Biên đang từng bước chuyển hóa di sản thành sức mạnh nội sinh nuôi dưỡng bản sắc văn hóa vùng miền.
Tuy nhiên, để có thể đồng hành với sự phát triển, thì các nghi lễ truyền thống cần phải hội nhập. Việc gắn bảo tồn với du lịch đang trở thành hướng đi phù hợp được tỉnh triển khai những năm gần đây, hướng tới mục tiêu văn hóa vừa được gìn giữ, vừa tạo động lực phát triển kinh tế. Theo đó, những lễ hội đặc sắc, như: Lễ hội Xên bản, Lễ hội Thành Bản Phủ, Lễ hội té nước của người Lào, chương trình nghệ thuật Lễ hội Hoa Ban, Festival Tinh hoa Tây Bắc - Điện Biên năm 2025 đã vượt ra khỏi phạm vi sinh hoạt cộng đồng, để trở thành sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn.

Các lễ hội truyền thống ngày càng được mở rộng không gian để phát triển du lịch.
Mỗi mùa lễ hội tái hiện nét đẹp tín ngưỡng, phong tục của đồng bào, tạo không gian trải nghiệm đặc trưng, thu hút du khách đến khám phá vùng đất, con người địa phương. Công tác quảng bá được triển khai đồng bộ đã góp phần đưa hình ảnh Điện Biên đến gần hơn với công chúng trong và ngoài nước. Thống kê trong giai đoạn 2021 - 2025, địa phương đã thu hút hơn 2,7 triệu lượt khách tới tham quan, trải nghiệm và mở ra nhiều cơ hội mới để di sản văn hóa trở thành tài nguyên phát triển bền vững.
Dù vậy, nguy cơ mai một nghi lễ truyền thống diễn ra mạnh mẽ, nhất là trong các cộng đồng ít dân số, bị giao thoa văn hóa sâu và chịu tác động của thương mại hóa. Trong bối cảnh tỉnh nỗ lực hướng tới phát triển du lịch gắn với văn hóa bản địa, việc bảo tồn nghi lễ truyền thống càng có ý nghĩa chiến lược. Bởi nếu không có bản sắc, du lịch văn hóa chỉ còn lại “trình diễn cho khách xem”. Chính vì thế, bảo tồn văn hóa không chỉ là nhiệm vụ của ngành Văn hóa hay của một vài cộng đồng thiểu số, mà trở thành trách nhiệm chính trị - xã hội mang tính lâu dài, được đặt trong chiến lược phát triển tỉnh. Đặc biệt, việc triển khai sắp xếp đơn vị hành chính và chuyển sang mô hình 2 cấp đặt ra yêu cầu mới, đòi hỏi cao hơn trách nhiệm của cấp xã trong việc gần dân, sát dân để phát huy tính chủ động, sâu sát, coi văn hóa là nền tảng phát triển.


































