Nghề báo qua hồi ức những nhà báo lão thành

Câu chuyện của những nhà báo lão thành, dù đã ở tuổi xưa nay hiếm, giúp thế hệ làm báo hiện nay hiểu hơn về lịch sử và những giai đoạn hào hùng mà báo chí cách mạng đồng hành cùng dân tộc.

Giờ đây, mong muốn lớn nhất của họ là báo chí cần tiếp nối truyền thống, đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Nhà báo Hà Đăng và "5 cái hai"

Ở tuổi 96, nhà báo Hà Đăng vẫn giữ nếp sống lạc quan, yêu đời, khiêm nhường và hài hước hiếm thấy.

Ông thường xuyên viết báo, tham dự các sự kiện báo chí, đóng góp những ý kiến chân thành, sắc sảo và luôn bám sát thời cuộc.

Nhà báo Hà Đăng.

Nhà báo Hà Đăng.

Mở đầu câu chuyện, ông dí dỏm nói: "Tôi xin được tóm tắt ngắn gọn về bản thân thế này, tôi đã trải qua "5 cái hai": Hai trung - hai đại - hai tổng - hai trưởng - hai trợ". Nghe có vẻ phức tạp nhỉ! Nhưng thực ra rất gọn gàng và đủ cả các chặng đường của tôi đấy".

Ông cười và giải thích: Hai trung là hai nhiệm kỳ làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa 6 và 7 (1986-1996); Hai đại là hai khóa Đại biểu Quốc hội 8 và 9 (1987 - 1997); Hai tổng là Tổng biên tập Báo Nhân Dân (1987 - 1992) và Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản (1996 - 2001); Hai trưởng là Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (1992-1996) và Trưởng ban Chỉ đạo xây dựng bản thảo Văn kiện Đảng toàn tập; Hai trợ là Trợ lý Tổng Bí thư Lê Duẩn (1984 - 1986) và Trợ lý Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (2001 - 2006).

Bén duyên với nghề báo từ năm 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay "Tâm sự đồng bạc trong két sắt" viết năm 1947 đăng trên Báo "Phấn đấu", tờ báo của Ty Tuyên truyền tỉnh Phú Yên.

Ông kể, hồi đó ông làm Trưởng ban Tuyên truyền xã, quần chúng tham gia kháng chiến được yêu cầu ủng hộ quỹ kháng chiến.

Ở xã có một phú ông tốt tính nhưng lại rất chắt chiu. Vì thế ông đã viết bài này, thông qua thân phận đồng bạc để nói, đồng bạc ở trong tay người nghèo thì chuyển thành vũ khí, lương thực cho bộ đội.

Còn đồng bạc của nhà giàu thì nằm trong két sắt, vẫn là thân phận đồng bạc nhưng cảm thấy nó lẻ loi, vô dụng quá.

"Tôi không viết phê phán mà chỉ ẩn dụ để phú ông hiểu và mở lòng trắc ẩn. Rất vui, sau khi bài báo được đăng, phú ông đó đã đem tiền ra ủng hộ quỹ kháng chiến nhiều hơn.

Tôi nghĩ, tôi đã thành công trong việc đánh trúng tâm lý của nhà giàu lúc đó", ông nói.

Nhà báo Hà Đăng còn được biết đến với tác phẩm nổi tiếng "Ba lần đuổi kịp trung nông", viết về các hợp tác xã nông nghiệp thời kỳ đầu, ca ngợi năng suất và hiệu quả trong lao động của xã viên tại Quảng Bình, đăng trên Báo Nhân Dân ngày 9/1/1961.

Ngay trong ngày bài báo được đăng, Tổng biên tập Báo Nhân Dân đã nhận được điện thoại từ Bác Hồ.

Bác khen ngợi và chỉ thị Ban Công tác nông thôn Trung ương (do Đại tướng Nguyễn Chí Thanh làm Trưởng ban) trực tiếp đi nghiên cứu và viết về kinh nghiệm của Hợp tác xã Đại Phong.

Từ chỉ đạo quan trọng này của Bác, phong trào thi đua "Học tập Đại Phong, đuổi kịp và vượt Đại Phong" hay còn gọi là Phong trào "Gió Đại Phong" đã nhanh chóng lan rộng khắp cả nước, trở thành hình mẫu điển hình trong phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1961 - 1965.

Ông cũng viết nhiều bài báo về xây dựng Đảng, xuất bản 3 cuốn sách: "Thế ta thế thắng", "Đi lên từ sản xuất nhỏ", "Cái mới trong đổi mới" và nhận được nhiều giải thưởng của Hội Nhà báo Việt Nam.

Đầu tháng 6/2025, nhà báo Hà Đăng ra mắt cuốn sách thứ 4 "Tinh hoa cách mạng Việt Nam" tập hợp những bài viết để lại nhiều dấu ấn nhất trong cuộc đời làm báo của ông.

Trò chuyện và chia sẻ về bối cảnh làm báo hiện nay, nhà báo Hà Đăng tin tưởng, gửi gắm: "Cần coi trọng lớp trẻ, vì đó là tương lai của đất nước. Ngược lại, lớp trẻ cũng cần xem trọng những giá trị và tinh hoa mà thế hệ đi trước đã tạo ra".

Yêu nghề khắc có đạo đức nghề nghiệp

Cả cuộc đời nhà báo Phan Quang gắn chặt với nghiệp viết. Nếu tính từ khi ông bắt đầu tham gia viết Báo Cứu Quốc năm 1948 đến nay, ông đã cống hiến 74 năm cho sự nghiệp báo chí cách mạng. Ở tuổi 97, ông chưa lúc nào ngơi nghỉ đọc - đi - nghĩ - viết.

Nhà báo Phan Quang.

Nhà báo Phan Quang.

Viết báo khi tuổi đôi mươi, nhà báo Phan Quang luôn tâm niệm lời Bác Hồ dạy: "Viết có hay người ta mới đọc".

Ban đầu, ông làm phóng viên, viết Báo Cứu Quốc ở Liên khu IV, dọc theo dãy Trường Sơn từ Thừa Thiên - Huế trở ra.

Tháng 10/1954, ông được điều về Hà Nội làm phóng viên Báo Nhân Dân, gắn bó 28 năm.

Trong kháng chiến chống Mỹ, ông sống nhiều ở tuyến lửa khu IV, chuyên tâm nghiên cứu nhiều vấn đề về nông nghiệp - nông thôn và nông dân, là một nhà báo rất có uy tín trong lĩnh vực này.

Phục vụ đất nước, nhân dân, gia tài đồ sộ của nhà báo Phan Quang là hàng nghìn bài báo và hơn 50 tác phẩm văn học đã xuất bản.

Là một nhà báo, ông luôn có mặt ở những điểm nóng, những sự kiện quan trọng của lịch sử nước nhà, lăn lộn ở nhiều chiến trường, theo sát các đoàn quân chiến đấu để ghi, chép, viết, phản ánh chân thực cuộc kháng chiến của dân tộc.

Một trong những điều nhà báo Phan Quang luôn trăn trở suốt những năm còn công tác cho đến ngày nay là vấn đề đạo đức báo chí.

Theo ông, ai yêu nghề, quý nghề, người ấy khắc có đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức báo chí bắt nguồn từ cái tâm, cái đức của người làm báo.

Ông nói: "Tấm lòng ta sáng, cái đức ta trong, ta tôn trọng sự thật, ta phụng thờ lẽ phải, ta viết báo vì lợi ích những người đọc chúng ta, đó là đạo đức.

Còn về nghiệp vụ, nếu có sai thì sửa, chẳng may vấp ngã thì ta đứng dậy, mình tự hỏi mình do đâu vấp ngã, rồi thanh thản tiến bước tiếp tục đi lên".

Từ bản tin nhanh đầu tiên đến tài liệu chiến lược

Ở độ tuổi U90, nguyên Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam Hồ Tiến Nghị vẫn không giấu nổi hào hứng khi nhắc lại quãng đời làm báo đầy sôi nổi.

Nhà báo Hồ Tiến Nghị.

Nhà báo Hồ Tiến Nghị.

Ngày đó, sau khi trải qua mấy lớp học đầu tiên về thông tin, được nghe bài học kinh nghiệm vô giá từ các bậc đàn anh, đàn chị ở những cơ quan báo chí nổi tiếng, ông và những người cùng lứa lập tức được đưa vào các môi trường công tác sục sôi khí thế cách mạng.

Ở miền Bắc, ông hòa vào không khí sôi động của phong trào "Ba ngọn cờ hồng" nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Còn ở miền Nam, suốt thập niên 60, đất nước chứng kiến biết bao biến động chính trị và những sự kiện cách mạng có một không hai, góp phần tạo thế và lực để tiến tới thắng lợi cuối cùng vào ngày 30/4/1975.

Nói đến công tác thông tin thời chiến, ông Nghị kể: "Khi đó, thông tin tham khảo chiến lược vô cùng hiếm hoi.

Từ các cơ quan lãnh đạo cấp cao cho đến từng nơi, kể cả Việt Nam thông tấn xã, đều phải sử dụng bản tin 3TG (Tin thế giới) của Bộ Ngoại giao.

Trong bối cảnh đó, ông và các đồng nghiệp đã mạnh dạn đề xuất với lãnh đạo Phòng cho ra thử bản Tin nhanh đầu tiên của Việt Nam thông tấn xã.

Bản tin nhanh khi ấy chỉ tập trung vào thông tin trong nước, dài chừng ba đến bốn trang, mỗi ngày phát ba lần vào sáng, trưa và tối. Bản tin sau đó lại được cải tiến, khai thác thêm thông tin quốc tế để đưa vào.

"Tin nhanh của Việt Nam thông tấn xã khi ra đời đã được Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan nghiên cứu đánh giá rất cao, trở thành tài liệu không thể thiếu của các nhà lãnh đạo và giới nghiên cứu", ông Nghị kể.

Dừng lại chốc lát, ông kể tiếp về một dấu mốc nữa: "Vào khoảng thời gian diễn ra cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, nhóm chúng tôi lại tiếp tục có sáng kiến cho ra đời bản "Tài liệu tham khảo đặc biệt", được xây dựng trên cơ sở mở rộng từ bản tin tham khảo thế giới.

Bản tài liệu ấy nhanh chóng trở thành một tài liệu nghiên cứu chiến lược và giá trị vẫn còn nguyên cho đến tận ngày nay".

Nhân chứng sống của trường báo đầu tiên

Sinh năm 1924 tại Hà Tĩnh, nhà báo Phạm Viết Thiệu hiện đã 101 tuổi, là một trong hai học viên cuối cùng còn sống của khóa đầu tiên Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng - cơ sở đào tạo báo chí cách mạng đầu tiên do Bác Hồ đặt tên và chỉ đạo thành lập.

Nhà báo Phạm Viết Thiệu (bìa phải).

Nhà báo Phạm Viết Thiệu (bìa phải).

Năm 1949, Phạm Viết Thiệu được lựa chọn tham gia lớp học đặc biệt kéo dài ba tháng, nơi ông được trực tiếp nghe giảng từ những lãnh đạo hàng đầu của Đảng như: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Xuân Thủy… Đây là khóa học duy nhất của ngôi trường huyền thoại ấy.

Ngay sau khi tốt nghiệp, ông được phân công về làm Báo Hòa Bình, rồi hoạt động trong kháng chiến với tư cách người viết báo kiêm cán bộ tuyên truyền.

Sau này, ông tiếp tục gắn bó với nghề báo qua các vị trí quan trọng: Giảng viên Trường Tuyên giáo Trung ương, Tổng biên tập Tạp chí Tuyên truyền…

Ở tuổi bách niên, ông vẫn nhớ như in từng người bạn học cùng lớp báo đầu tiên, những người đã nằm lại nơi chiến trường, hoặc khuất bóng theo năm tháng.

Ông nói, những ngày sống và học làm báo trong rừng Việt Bắc là quãng thời gian vinh quang, đáng tự hào nhất đời.

Những ký ức ấy không chỉ quý giá với riêng ông, mà còn là phần hồn của nền báo chí cách mạng buổi đầu, một thời gian khổ nhưng đầy lý tưởng.

Với ông, đạo đức người làm báo là điều cốt lõi nhất. Những lời ông dạy con trai, nhà báo Phạm Việt Dũng, cũng là bài học còn mãi giá trị cho các thế hệ làm báo hôm nay: "Phải suy nghĩ xem nội dung mình viết tác động đến công chúng thế nào. Viết cái gì phải dễ hiểu. Phải biết mười phần mới viết hai, ba phần thôi".

Đó không chỉ là lời răn dạy của người cha mà còn là triết lý nghề nghiệp của một nhà báo cách mạng suốt đời tận tụy.

Người lưu giữ ký ức báo chí thời Đổi mới

"Chặng đường làm báo chuyên nghiệp hơn 30 năm của tôi tưởng sẽ dừng lại khi cầm quyết định nghỉ hưu, nhưng tôi vẫn thường xuyên cộng tác viết bài cho các báo như một cái nghiệp của nghề", nhà báo Hữu Mão, nguyên Trưởng phòng Thư ký Tòa soạn, Thời báo Tài chính Việt Nam chia sẻ.

Nhà báo Hữu Mão tặng báo cho Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Hội báo Xuân toàn quốc Tết Đinh Sửu 1997. Ảnh tư liệu.

Nhà báo Hữu Mão tặng báo cho Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Hội báo Xuân toàn quốc Tết Đinh Sửu 1997. Ảnh tư liệu.

Hữu Mão bắt đầu nghiệp báo từ những năm kháng chiến chống Mỹ. Trong những tháng ngày khói lửa ở "chảo lửa" Nghệ An năm 1972, chàng chiến sĩ trẻ Hữu Mão vừa cầm súng chiến đấu, vừa ghi chép nhật ký và viết bài gửi đăng báo.

"Đối mặt với sự hy sinh của đồng đội và tình quân dân trong khói lửa đã thôi thúc tôi cầm bút", ông chia sẻ.

Những bài viết ấy, ông cho vào phong bì, mang ra ngã ba Khe Sanh - nơi các xe quân sự thường đi qua - nhờ các tài xế mang ra Bắc gửi giúp.

Chính từ những phong thư ấy, ông trở thành Thông tin viên chiến trường của Báo Quân đội nhân dân, khởi đầu cho hành trình nghề báo.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông được mời về Hà Nội tham gia lớp bồi dưỡng viết báo chuyên nghiệp. Cây bút chiến trường Hữu Mão dần rũ bỏ cách viết cảm tính để tiếp cận với nghề báo một cách bài bản, chuyên nghiệp.

Ở thời điểm báo chí Việt Nam vẫn còn rất thủ công, Hữu Mão và các đồng nghiệp đã làm báo theo mô hình đó: Vừa viết tin bài cho báo in, vừa cộng tác với Phát thanh Quân đội, Truyền hình Quân đội - một phương thức làm báo gần gũi với cách làm hiện đại sau này.

Đầu những năm 1990, trong không khí cởi mở của công cuộc Đổi mới, ông được mời ra làm Phó tổng biên tập Báo Tuổi trẻ Thủ đô - tờ báo mới ra đời của Thành đoàn Hà Nội.

Đến năm 1993, ông được điều động về Thời báo Tài chính Việt Nam, giữ chức Trưởng phòng Thư ký Tòa soạn.

Ông gọi đây là "giai đoạn báo chí trưởng thành" của mình, với nhiều kỷ niệm sâu sắc trong đời làm nghề.

"Trong gần 20 năm làm việc ở Thời báo Tài chính Việt Nam, tôi có nhiều kỷ niệm sâu sắc của đời làm báo. Đáng nhớ nhất là lần tặng báo Tổng Bí thư Đỗ Mười tại Hội báo Xuân toàn quốc, dịp Tết Nguyên đán Đinh Sửu năm 1997 và cuộc gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp mùa hè năm 2006.

Cho đến nay, các đồng nghiệp của tôi ở Thời báo Tài chính Việt Nam đều nói rằng, bức ảnh Hữu Mão tặng báo Tổng Bí thư Đỗ Mười là bức ảnh truyền thống đẹp nhất của báo", nhà báo Hữu Mão chia sẻ.

Từ biên tập viên đến người đứng đầu Thông tấn xã

"Mỗi dịp tháng 6, bạn bè đồng nghiệp cùng hân hoan hướng về ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, lòng tôi lại dâng trào xúc động.

Tôi được đứng trong hàng ngũ của những người làm báo từ thời kỳ cách mạng đến thời bình, trong giai đoạn đổi mới, tuy chỉ góp một phần nhỏ thôi, nhưng cảm thấy rất vinh dự, tự hào", nhà báo Lê Quốc Trung bày tỏ.

Nhà báo Lê Quốc Trung.

Nhà báo Lê Quốc Trung.

Lê Quốc Trung bắt đầu sự nghiệp của mình tại một tờ báo đối ngoại, nhiệm vụ là dịch và biên tập lại báo ảnh tiếng Việt sang tiếng Tây Ban Nha để chuyển đến cho đồng bào ở Cuba và Mỹ La Tinh.

Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, năm 1977, Báo ảnh Việt Nam chuyển về Thông tấn xã Việt Nam, biên tập viên Lê Quốc Trung có dịp tiếp xúc nhiều hơn và rộng hơn với các thể loại báo chí thông tấn.

Nhận thấy tố chất, đam mê và nhiệt huyết của ông, các lãnh đạo cấp trên thời kỳ đó đã quan tâm bồi dưỡng, hỗ trợ, giúp ông từng bước trưởng thành và trở thành một trong những cán bộ lãnh đạo của Thông tấn xã.

Từ vị trí Phó tổng giám đốc, năm 2001, nhà báo Lê Quốc Trung trở thành Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam.

Và đến tận bây giờ, khi đã nghỉ hưu, ông vẫn tham gia đóng góp với tư cách thành viên của Hội đồng chấm Giải Báo chí quốc gia.

Chia sẻ những trăn trở về nghề báo trong giai đoạn hiện nay, nhà báo Lê Quốc Trung nhận định: "Phải thay đổi cách nghĩ, cách tiếp cận với cuộc sống, xu thế mới của thời đại; phản ánh chân thực, đa chiều những vấn đề quan trọng trong từng giai đoạn chuyển mình của dân tộc".

Kết hợp "lý luận với thực hành ngay"

Nhà báo Trần Bá Lạn, nguyên là Trưởng khoa Báo chí đầu tiên của Trường Tuyên giáo Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Ông sinh ngày 7/11/1930 trong một gia đình trí thức ở thôn Vân Hội, xã Vân Bình, huyện Thường Tín, Hà Nội.

Nhà báo Trần Bá Lạn.

Nhà báo Trần Bá Lạn.

Tháng 11/1953, sau khi tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Liên khu IV, Trần Bá Lạn được cử đi học một khóa tập huấn và được phân công về làm việc ở Báo Tiền Phong tại chiến khu Việt Bắc.

Năm 1954, ông được cử đi học ở trường Đại học Bắc Kinh. Sau khi tốt nghiệp, ông được cử về Ban Tuyên huấn Trung ương làm việc ở Vụ Báo chí.

Thời điểm đó, ngành báo chí cần mở các lớp đào tạo chuyên nghiệp, nên ông được cử về Trường Đại học Nhân dân (1961) tham gia giảng dạy tại tổ bộ môn báo chí.

Sau đó, Đại học Nhân dân hợp nhất với Trường Tuyên huấn và Trường Nguyễn Ái Quốc II để hình thành Trường Tuyên giáo Trung ương (nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền).

Ban đầu ông không trực tiếp lo việc thành lập khoa mà chỉ là thành viên. Tuy nhiên, sau đó, các thành viên khác đều rút lui, nên ông được giao trách nhiệm phải lo cho học sinh Khoa Báo chí.

Từ đó, nhà báo Trần Bá Lạn gắn bó với công việc đào tạo cho đến khi nghỉ hưu theo chế độ.

Với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm ở trường báo, thầy Trần Bá Lạn cho biết, quan trọng nhất trong giảng dạy là phải kết hợp "lý luận với thực hành ngay", bởi làm báo là phải đi thực tế, không thể chỉ ngồi trong lớp.

Thậm chí, ngay từ năm thứ nhất, sinh viên đã được yêu cầu tập làm báo tại chỗ và tham gia cộng tác viên cho các báo.

Những bài viết của sinh viên được sử dụng trên báo đã kích thích phong trào viết báo, làm cho khóa đào tạo ngày càng sôi nổi. Tỷ lệ học viên thành công của các khóa sau ngày càng cao.

Hiện ông đã xuất bản bộ 2 tập "Giáo trình nghiệp vụ báo chí" năm 1977 và 4 cuốn sách: "Nghĩa nặng tình sâu", "Tâm tình từ con số 7", "Tiếng súng và bước ngoặt cuộc đời", "Vọng mãi niềm tin". Trong đó, cuốn "Vọng mãi niềm tin" là tổng hợp các bài viết của các nhà báo khác viết về ông.

Thầy Trần Bá Lạn cho hay, để làm báo tốt, mỗi nhà báo phải có quan điểm chính trị tư tưởng vững vàng; phải bảo đảm "tính chân thật, tính chiến đấu, tính chỉ đạo, tính quần chúng"; biết cách phân biệt và phát hiện những nhân tố tốt trong xã hội.

Không được dừng lại ở những điều đã biết mà phải luôn tìm hiểu, tích lũy thêm kiến thức, khám phá những tình tiết sâu lắng, ẩn chứa trong những ý tưởng mới.

Diên Dương

Thúy Vũ

Nguồn Xây Dựng: https://baoxaydung.vn/nghe-bao-qua-hoi-uc-nhung-nha-bao-lao-thanh-192250619173819085.htm
Zalo