Ngành Ngân hàng trong triển khai Nghị quyết 68
Tại Tọa đàm 'Phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại trong thực hiện Nghị quyết 68' ngày 27/6, ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (Ngân hàng Nhà nước), đã chia sẻ những hành động cụ thể trong thực hiện Nghị quyết 68.

Ông Nguyễn Phi Lân, Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - Ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN) - Ảnh: VGP/Dương Tuấn
Từ định hướng đến hành động chính sách
Chia sẻ tại tọa đàm, ông Nguyễn Phi Lân nhấn mạnh, Nghị quyết 68 được Bộ Chính trị ban hành đã tạo ra dấu ấn quan trọng đối với nền kinh tế trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Nghị quyết được cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân hào hứng đón đợi. Trong đó, Nghị quyết 68 đã tạo điều kiện để khu vực doanh nghiệp tư nhân tiếp cận đa dạng nguồn vốn, không chỉ từ hệ thống ngân hàng mà còn từ các kênh tài chính khác.
Đối với Ngân hàng Nhà nước, việc cụ thể hóa Nghị quyết 68 được thực hiện một cách bài bản và đồng bộ. Cụ thể, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành kế hoạch triển khai hành động (Quyết định số 2415 và 2416) để triển khai Nghị quyết 68 cũng như cụ thể hóa Nghị quyết 138, 139 của Thủ tướng Chính phủ. Kế hoạch hành động này đã cụ thể hóa tất cả các chương trình hành động, cụ thể tới tất cả các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng để triển khai các giải pháp đồng hành cùng với các doanh nghiệp, cụ thể hóa Nghị quyết 68 cũng như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tới người dân, doanh nghiệp, các ngân hàng, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp tư nhân có thể tiếp cận nguồn vốn, đồng hành cùng các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình phát triển.
Bên cạnh các nội dung cụ thể hóa các giải pháp nêu trong Nghị quyết 68, ngành Ngân hàng đã triển khai các nội dung trong cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Một trong những mục tiêu xuyên suốt của Nghị quyết 68 là hoàn thiện hành lang pháp lý về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Ngay lập tức, để khơi thông dòng vốn cũng như xử lý nợ xấu, ngành Ngân hàng đã tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa Nghị quyết 42 vào trong Luật Các tổ chức tín dụng. Và tại kỳ họp này, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua. Đây là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, giúp các ngân hàng và tổ chức tín dụng tháo gỡ các nút thắt về tín dụng và xử lý nợ xấu – một thách thức lớn nhiều năm qua đối với toàn ngành.
Với tuyệt đại đa số đại biểu tán thành, sáng ngày 27/6, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2025.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân, điều quan trọng là phải xây dựng được một môi trường kinh doanh an toàn, lành mạnh, ổn định để giúp họ có niềm tin vào hệ thống ngân hàng. Muốn làm được điều đó, chính sách tiền tệ phải được điều hành một cách chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, và phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa cũng như các chính sách khác để tạo ra một môi trường ổn định về kinh tế vĩ mô. Khi môi trường này được thiết lập, doanh nghiệp sẽ cảm nhận được sự tin tưởng và thuận lợi trong tiếp cận nguồn vốn.
Cùng với đó, cần đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động ngân hàng nhằm cải thiện môi trường kinh doanh. Trong Quyết định 2415 và 2416, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các đơn vị phải đơn giản hóa thủ tục cho vay, tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp, người dân tiếp cận nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Đây là một trong những nội dung quan trọng được cụ thể hóa trong kế hoạch hành động của toàn ngành.
Ngoài ra, ngành Ngân hàng cũng phải bảo đảm hoạt động của các ngân hàng thương mại diễn ra an toàn, lành mạnh. Trong thời gian qua, ngành đã và đang tiếp tục thực hiện cơ cấu lại, nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng – bảo đảm các tổ chức tín dụng vận hành an toàn, hiệu quả. Khi các ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, chi phí vốn sẽ thấp hơn, từ đó hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, ngành Ngân hàng không chỉ đảm bảo nguồn vốn cho nền kinh tế mà còn phải tự tái cấu trúc để trở nên mạnh hơn, từ đó cung cấp các khoản vay hiệu quả hơn, chi phí thấp hơn. Đồng thời, ngành cũng phải đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và chuyển đổi số – đây là xu hướng tất yếu.
Việc ban hành các quyết định triển khai không chỉ nhanh chóng mà còn bảo đảm tính thiết thực. Cách tiếp cận đó cho thấy sự cam kết mạnh mẽ của ngành Ngân hàng trong việc đồng hành cùng khu vực kinh tế tư nhân – không chỉ ở cấp độ chính sách mà còn trong tổ chức thực thi.
Thúc đẩy tín dụng hiệu quả
Ông Nguyễn Phi Lân cung cấp một bức tranh toàn diện về tình hình tín dụng trong thời gian gần đây, qua đó cho thấy tín dụng đã thực sự lan tỏa tới khu vực kinh tế tư nhân. Tính ngày 18/6/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 16,73 triệu tỷ đồng, tăng 7,14% so với cuối năm 2024; tăng 18,71% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024, dư nợ tín dụng tăng 3,87% so với tháng 12/2023). Đây là mức tăng trưởng tín dụng khá tích cực, nhất là khi đặt trong bối cảnh nền kinh tế đang nỗ lực phục hồi và tăng tốc.

Đáng lưu ý, có đến 100 tổ chức tín dụng đã phát sinh dư nợ đối với khu vực kinh tế tư nhân, trong đó khoảng 209.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng. Điều này cho thấy khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã được cải thiện. Ngành Ngân hàng tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, trong việc tạo nguồn vốn an toàn và hiệu quả để doanh nghiệp có thể tiếp cận.
Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng còn tích cực thực hiện nhiều chương trình tín dụng. Ví dụ như chương trình tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; chương trình 500.000 tỷ đồng cho vay đầu tư hạ tầng... Điều này cho thấy, ngành Ngân hàng luôn đồng hành cùng doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi nhất để phát triển kinh doanh. Một mặt đảm bảo an toàn hệ thống, mặt khác cung cấp các gói tín dụng thiết thực – đó là điều mà ngành đang và sẽ tiếp tục triển khai.
Cùng với đó, trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã có những chính sách đồng hành thiết thực cùng các doanh nghiệp tư nhân như cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giảm lãi suất, hỗ trợ phục hồi sau dịch bệnh, thiên tai. Các ngân hàng cũng không ngừng đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, số hóa quy trình cho vay cũng như là giảm thiểu các chi phí, rút ngắn hồ sơ quy trình trong quá trình xử lý để cho vay đối với cả các doanh nghiệp tư nhân.
Ông Lân cũng cho rằng, Nghị quyết 68 khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân xây dựng hệ thống, hệ sinh thái tài chính minh bạch, nâng cao năng lực quản trị. Bên cạnh đó, tạo cho các doanh nghiệp đầu tư bài bản hơn, phù hợp với phân khúc thị trường mà các doanh nghiệp tư nhân đang theo đuổi, cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân đa dạng hóa nguồn vốn để giảm thiểu rủi ro, tránh phụ thuộc quá nhiều vào dòng vốn của ngành Ngân hàng.
Trong bối cảnh bước sang kỷ nguyên mới đòi hỏi các doanh nghiệp tư nhân phải nỗ lực thay đổi diện mạo của mình. Đối với ngành Ngân hàng, một trong những vấn đề đặt ra là phải đồng hành cùng khu vực kinh tế tư nhân. Điều đó thể hiện từ việc phải nâng cao quản trị rủi ro, đảm bảo dòng vốn tín dụng được phân bổ hiệu quả, tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên, những ngành mà khu vực kinh tế tư nhân đã và đang cần.
Ngành Ngân hàng cũng cần phải tiếp tục đổi mới công nghệ, phải ứng dụng số vào các dịch vụ tín dụng để khách hàng trải nghiệm các dịch vụ, sản phẩm tốt hơn, quy trình đơn giản hơn. Đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trong quá trình tiếp cận thị trường, tiếp cận nguồn vốn, thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt hơn, để cho các doanh nghiệp cảm thấy sản phẩm có ích, hữu hiệu và hứng thú với các sản phẩm đó. Đồng thời, ngành Ngân hàng vẫn phải thực hiện quy trình nghiêm ngặt hơn, đảm bảo đúng chuẩn mực quốc tế, theo đúng thông lệ quốc tế.