Ngành công nghiệp hỗ trợ: Phát huy nội lực, nắm bắt xu thế để bứt phá

Ông Vũ Bá Phú - Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương) cho biết, đến cuối năm 2024, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hiện có khoảng 6.000 doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực then chốt như: dệt may, ô tô, da giày, cơ khí chế tạo, điện tử; đóng góp phát triển một số ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam, giúp kim ngạch xuất siêu từ 2 tỷ USD năm 2017 lên hơn 28 tỷ USD trong năm 2024. Tuy nhiên, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hiện nay mới chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng nội địa. Nguyên nhân chính là do năng lực cạnh tranh và khả năng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp còn hạn chế.

Nhiều dư địa phát triển

Cùng quan điểm trên, ông Nguyễn Hoàng - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp ngành Công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội (Hansiba) khẳng định, đây là một thách thức lớn và đáng báo động, bởi mỗi năm Việt Nam phải chi hàng tỷ USD để nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài, phục vụ hoạt động sản xuất trong nước. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn ngoại tệ, mà còn cho thấy sự phụ thuộc đáng kể của nền kinh tế vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Lý giải nguyên nhân trên, ông cho biết, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, việc các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi cung ứng là một yếu tố then chốt để phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là những doanh nghiệp có chuỗi cung ứng toàn cầu và cùng quốc tịch, có xu hướng hạn chế trong việc chủ động hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị của họ. Ngoài ra, một thách thức lớn đang tồn tại là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn khá thấp, chưa đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng, công nghệ và quản lý của chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo số liệu từ Hansiba, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ còn rất nhỏ, chỉ chiếm khoảng 0,2% trong tổng số gần 900 nghìn doanh nghiệp Việt Nam.

Ông Haruhiko Ozasa - Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội chia sẻ, tỷ lệ nội địa hóa tổng thể, bao gồm cả các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam hiện đạt 36,6%. Tuy nhiên, khi xét riêng các doanh nghiệp Việt Nam, con số này khá nhỏ, chỉ đạt 15,7%. Điều này cho thấy Việt Nam còn rất nhiều dư địa và tiềm năng to lớn để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.

Tăng cường hợp tác thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Tăng cường hợp tác thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Hóa giải điểm nghẽn

Chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực triển khai nhiều chính sách và chương trình trọng điểm nhằm phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Mục tiêu đầy tham vọng là đến năm 2030 đáp ứng được 45% nhu cầu sản xuất và tiêu dùng nội địa, đồng thời đóng góp 25% vào tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.

Để hiện thực hóa điều này, theo ông Vũ Bá Phú, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi một chiến lược toàn diện, bao gồm chủ động nguồn nguyên liệu, rà soát và hoàn thiện cơ chế, chính sách, đảm bảo các quy định phù hợp với cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như các công ước quốc tế về biến đổi khí hậu và chuyển đổi xanh.

Ông Phú cho rằng, trong bối cảnh Chính phủ không ngừng kiến tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thì sự chủ động của doanh nghiệp trở thành yếu tố quyết định cho sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ. Nghị quyết 68 đã mở ra không gian rộng lớn cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số để nâng cao năng lực cạnh tranh. Qua đó, doanh nghiệp sẽ tăng cường năng lực khoa học công nghệ, mở rộng sản xuất và đảm bảo nguồn cung ứng nguyên phụ liệu chất lượng cao, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đã đề ra cho ngành công nghiệp hỗ trợ.

Doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt xu hướng thị trường quốc tế. Cùng với đó, phải chuyển đổi mô hình quản trị và hệ thống kiểm soát nội bộ theo chuẩn mực quốc tế. Điều này rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các đối tác nước ngoài, qua đó nâng tầm vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu; tận dụng tối đa những cơ hội, đưa ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vươn tầm quốc tế.

Ông Haruhiko Ozasa thì mong muốn các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý sản xuất và kiểm định chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam sở hữu nguồn nhân lực công nghệ thông tin dồi dào với khoảng 50.000 kỹ sư tốt nghiệp mỗi năm – một con số ấn tượng so với mặt bằng chung thế giới. Gần đây, việc chuyển đổi số trong ngành chế tạo cũng đang được triển khai tích cực, điển hình là ứng dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa quy trình sản xuất và sử dụng AI trong kiểm định chất lượng sản phẩm nhằm loại bỏ sản phẩm lỗi. “Tôi tin rằng, với thế mạnh về công nghệ thông tin và nguồn nhân lực sẵn có, sự kết hợp giữa công nghệ thông tin và sản xuất chế tạo sẽ tạo ra ưu thế cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam”, ông chia sẻ.

Hải Yến

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/nganh-cong-nghiep-ho-tro-phat-huy-noi-luc-nam-bat-xu-the-de-but-pha-166229.html
Zalo