Ngành chăn nuôi cần 'cú hích' từ ngân hàng giống đến chuỗi hiện đại
Ngành chăn nuôi Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa chuyển đổi, với cơ hội lớn nhưng cũng nhiều thách thức. Từ giống vật nuôi, công nghệ, môi trường đến tổ chức sản xuất, mọi khâu đều cần được nâng cấp đồng bộ.
Sản xuất nhỏ lẻ, giá thành sản xuất cao
Theo thống kê của Cục Chăn nuôi và Thú y, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT), hơn 30% sản lượng chăn nuôi trong nước vẫn đến từ các hộ chăn nuôi nhỏ, phân tán, chưa gắn với chuỗi giá trị. Quy mô này khiến việc kiểm soát dịch bệnh, chất lượng sản phẩm và truy xuất nguồn gốc gặp nhiều khó khăn.

Cùng với đó, giá thành chăn nuôi trong nước hiện cao hơn 10–20% so với các nước trong khu vực, chủ yếu do chi phí thức ăn và giống vật nuôi. Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu như ngô, đậu tương cho sản xuất thức ăn chăn nuôi, khiến chi phí bị đội lên khi giá thế giới biến động.
Ngoài ra, nhiều loại giống vật nuôi chất lượng cao và vaccine vẫn phải nhập khẩu. Trong khi đó, công nghệ chăn nuôi hiện đại mới được áp dụng chủ yếu ở các doanh nghiệp lớn, còn nông hộ nhỏ chưa đủ nguồn lực đầu tư. Sự chênh lệch này tạo nên khoảng cách năng suất rõ rệt giữa các mô hình.
Chính vì thế, dịch tả lợn châu Phi, cúm gia cầm, lở mồm long móng vẫn là những mối đe dọa tiềm ẩn. Dù đã có nhiều nỗ lực phòng chống, hệ thống an toàn sinh học tại cơ sở vẫn chưa được đảm bảo, đặc biệt ở khu vực chăn nuôi nhỏ lẻ. Mỗi đợt dịch bùng phát thường kéo theo thiệt hại lớn, khiến nhiều hộ trắng tay, ngại tái đàn.
Đặc biệt, khoảng 70% lượng thịt trên thị trường hiện vẫn đến từ các cơ sở giết mổ nhỏ lẻ, hoạt động xen kẽ khu dân cư, thiếu kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm. Tỷ lệ sản phẩm qua chế biến sâu mới đạt 25–30%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước phát triển. Điều này khiến thịt và sản phẩm chăn nuôi Việt Nam khó cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu, đồng thời gây khó khăn trong kiểm soát chất lượng và xây dựng thương hiệu quốc gia.

Ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y, Bộ NN&MT cho biết, năm 2026 sẽ là năm bản lề để ngành chăn nuôi bước vào giai đoạn phát triển bền vững hơn
Tại diễn đàn “Giải pháp giảm giá thành chăn nuôi, ổn định nguồn cung sản phẩm thịt trong nước và xuất khẩu”, ông Phạm Kim Đăng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y cho biết, ngành chăn nuôi đã đóng góp to lớn vào việc bảo đảm nguồn thực phẩm cho gần 100 triệu dân Việt Nam, đồng thời đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, đặt ra yêu cầu phải tái cơ cấu mạnh mẽ theo hướng chuyên nghiệp, bền vững và gắn với chuỗi giá trị. Nếu không tổ chức lại hoạt động giết mổ từ nhỏ lẻ sang tập trung thì không thể bảo đảm an toàn sinh học trong chăn nuôi, và không thể hướng tới mục tiêu xuất khẩu sản phẩm thịt.
Cần đồng bộ từ chính sách, quy hoạch, vốn đầu tư, khoa học công nghệ
Theo ông Tạ Văn Tường, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, thành phố hiện có hơn 6.700 trang trại chăn nuôi, trong đó gần 1.800 quy mô vừa và lớn. Hà Nội đã hình thành 57 chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, đảm bảo cung ứng ổn định cho thị trường, kể cả trong giai đoạn dịch bệnh hay đứt gãy chuỗi cung ứng.
“Thành phố đang chuyển từ chăn nuôi nhiều sang chăn nuôi hiệu quả. Chỉ khi phát triển theo chuỗi khép kín từ con giống, chăn nuôi, giết mổ đến phân phối chúng ta mới kiểm soát được chất lượng, đảm bảo an toàn sinh học và hướng tới xuất khẩu,” ông Tường chia sẻ.
Ông cũng lưu ý, để đạt mục tiêu này, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phương trong việc quy hoạch vùng chăn nuôi, kiểm soát hoạt động giết mổ nhỏ lẻ và khuyến khích người dân thay đổi thói quen tiêu dùng, hướng tới sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm.
Ông Nguyễn Văn Bách, Giám đốc Công ty CP Kinh doanh Thuốc thú y Amavet, giới thiệu mô hình “chăn nuôi không tiếp xúc” là một giải pháp mới giúp giảm thiểu lây nhiễm dịch bệnh, đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi. Mô hình này được xây dựng trên ba lớp bảo vệ: ngăn chặn, bao vây và không tiếp xúc, giúp giảm đáng kể chi phí thuốc thú y mà vẫn đảm bảo năng suất đàn.

Dự kiến mô hình nuôi heo cao tầng đầu tiên tại Việt Nam
Trong khi đó, Công ty TNHH MTV Gà giống Dabaco đang đầu tư mạnh vào nghiên cứu vaccine và công nghệ sinh học, với mục tiêu chủ động phòng bệnh và nâng cao chất lượng giống gia cầm nội địa. “Chỉ có đầu tư vào công nghệ, giống và quản lý mới giúp chúng ta giảm giá thành, cạnh tranh bền vững,” đại diện Dabaco khẳng định.
Đáng chú ý, mô hình “chung cư nuôi lợn” đang được thử nghiệm tại Tây Ninh và Phú Thọ. Mô hình này giúp giám sát chặt chẽ, tiết kiệm đất và nâng cao an toàn sinh học. Tuy chi phí đầu tư ban đầu lớn, song đây được coi là xu hướng tất yếu trong tiến trình hiện đại hóa ngành.
Theo Cục Chăn nuôi và Thú y, ngành đang hướng tới xây dựng Ngân hàng giống vật nuôi quốc gia, nhằm bảo tồn nguồn gen bản địa quý, đồng thời lai tạo và chọn lọc giống năng suất cao, thích ứng với biến đổi khí hậu. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam có thể chủ động hoàn toàn nguồn giống vật nuôi chủ lực, giảm phụ thuộc nhập khẩu và tạo thương hiệu cho các giống bản địa chất lượng cao.
Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y, ông Phạm Kim Đăng nhấn mạnh, năm 2026 sẽ là năm bản lề để ngành chăn nuôi bước vào giai đoạn phát triển bền vững hơn, hướng tới 4 mục tiêu: năng suất tốt hơn, dinh dưỡng tốt hơn, môi trường tốt hơn và cuộc sống tốt hơn cho người chăn nuôi. Trong đó, giống vật nuôi vẫn là yếu tố then chốt quyết định năng suất và hiệu quả. Ngoài vai trò của nông hộ, sự chung tay của doanh nghiệp trong nghiên cứu, lai tạo và phát triển giống chất lượng cao sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho ngành.
Các đại biểu thống nhất quan điểm rằng chăn nuôi Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn để chuyển đổi sang mô hình hiện đại, thân thiện môi trường và hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó, cần đồng bộ từ chính sách, quy hoạch, vốn đầu tư, khoa học công nghệ đến thay đổi nhận thức của người chăn nuôi và người tiêu dùng.