Ngân hàng thừa tiền, doanh nghiệp khát vốn!
Trong khi ngân hàng 'tồn kho' tiền thì nhiều doanh nghiệp (DN) lại rơi vào tình trạng khó tiếp cận vốn. Nút thắt này tưởng dễ gỡ nhưng sẽ rất khó nếu hai bên không thực sự quyết liệt.
Doanh nghiệp kêu ngân hàng thiếu linh hoạt
Chia sẻ tại Hội nghị đẩy mạnh tín dụng hỗ trợ DN lĩnh vực lúa gạo thủy sản đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) diễn ra chiều 15/9 tại Cần Thơ, đại diện tập đoàn Lộc Trời (An Giang) cho biết, dù là DN nông nghiệp hàng đầu, hoạt động trên toàn chuỗi sản xuất lúa gạo Việt Nam, được ưu tiên vay vốn nhưng chính Lộc Trời cũng đang gặp khó khi tiếp cận tín dụng.
Cụ thể, theo quy trình sản xuất lúa gạo, cần tối thiểu 4 tháng kể từ khi cây lúa được gieo trồng rồi thu hoạch, cộng thêm 2 tháng lưu kho thì thời hạn vay vốn 6 tháng như các ngân hàng đang thực hiện cho vay là có thể đáp ứng nhu cầu DN nói chung. Tuy nhiên, do đặc thù kinh doanh riêng của Lộc Trời là thực hiện quy trình từ giống cho đến khi gieo trồng thành phẩm, và xuất khẩu sang tận thị trường châu Âu, DN cần tới 18 tháng để quay vòng vốn.

Doanh nghiệp đề nghị ngân hàng linh hoạt hơn trong cấp hạn mức tín dụng.
Lúc này, thời hạn cho vay chỉ 6 tháng của ngân hàng khiến cho DN rất khó khăn trong việc cân đối dòng tiền. Vì vậy, ngân hàng không nên quá cứng nhắc, có thể cân đối để cho DN được vay vốn dài hạn hơn. Ngoài ra, đại diện DN này cũng cho rằng, việc cho DN bao tiêu vay vốn là gián tiếp hỗ trợ người nông dân. Hiện nay, "nút thắt cổ chai" đang chuyển từ chỗ DN sang người nông dân. Nông dân khó vay, DN sẽ vay và đầu tư cho nông dân. Nông dân không có tài sản thế chấp, không vay được nên đề xuất chính sách nếu nông dân có hợp đồng liên kết sản xuất với DN thì có thể có cơ sở để cho vay vì họ có hợp đồng bao tiêu đầu ra.
Cùng với đó, ngân hàng có thể quản lý vốn bằng cách cung ứng vật tư cho nông dân, khuyến khích nông dân mở tài khoản để quản lý dòng tiền. Đặc biệt, với những DN lớn như Lộc Trời, có những lúc, ký được đơn hàng lớn với doanh thu 1 đơn hàng có thể bằng cả năm nên nhu cầu vốn tăng đột biến. "Lúc này, đồng vốn sẽ là sự sống còn của DN. Vậy, nếu DN có đầu ra, có năng lực sản xuất, có nguyên liệu, nhưng vay vốn cần quá gấp thì đề nghị ngân hàng có thể từ các đơn hàng lớn đó, cấp tín dụng cho DN, không nên cứng nhắc làm DN mất cơ hội", đại diện DN đề xuất.
Cũng có chung đề xuất ngân hàng cần linh động hạn mức cho vay vốn, ông Ngô Minh Hiển, Tổng giám đốc CTCP XNK Thủy sản Năm Căn (Cà Mau) cho biết, ở Cà Mau, tôm khai thác tự nhiên từ tháng 3 đến tháng 6, lúc này, DN rất cần tiền để mua tôm của dân khai thác. Tuy nhiên, do tín dụng phân bổ kiểu "cào bằng" cho cả năm, nên lúc cao điểm, DN không được vay thêm vốn ngân hàng, không có tiền thu mua, dân phải bán ra giá rẻ.
"Tôm ép thu hoạch theo mùa vụ, DN cũng phải theo mùa vụ, mà đến mùa vụ, lại không vay được, nên dân bán rẻ, bị qua thương lái ép giá. Đến khi DN vay được vốn, lại phải mua cao vì trái vụ. Đây là một sự bất cập. Theo tôi, các ngân hàng thương mại đang thiếu sự linh hoạt, không hỗ trợ kịp thời. Khi tháo gỡ thì tiền lại không cần thiết nữa, không còn kịp nữa. Vì vậy, cần lắm những ngân hàng thương mại mạnh dạn cho hạn mức linh hoạt trong từng thời điểm, không cứng nhắc. Ngân hàng cần nhìn ở góc độ DN: Kinh doanh có hiệu quả không, vay để làm gì, nếu theo sát thì sẽ cho vay hợp lý", ông Hiển đề xuất.
Chia sẻ thêm, DN này còn cho rằng, với gói cho vay ưu đãi 15 nghìn tỷ dành cho DN thủy hải sản, cho đến thời điểm này, mới cho vay được hơn 30% là quá ít. "Chính phủ chỉ đạo từ tháng 4, đến 30/6, 13 ngân hàng mới đăng ký cho vay, rồi các bước gặp gỡ với các DN cũng chậm, trong khi có những DN tốt đang rất cần vốn, thì tôi thấy các ngân hàng thương mại đang chần chừ, không nhanh chóng triển khai", ông Hiển nhận xét.
Ngân hàng "chữa bệnh thừa tiền khó hơn chữa bệnh thiếu tiền"
Từ phía các ngân hàng, đại diện BIDV cho biết, họ cũng gặp khó khăn do đặc thù thu mua sản phẩm nông nghiệp từ nông dân không có hóa đơn chứng từ nên các tổ chức tín dụng khó thực hiện quy trình giải ngân và kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay; trong khi đó, phần lớn tài sản thế chấp vay vốn là đất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản có giá trị thấp, tính thanh khoản không cao.
Vì vậy, ngân hàng cũng đề nghị chính DN cần phải nghiêm túc thực hiện các cam kết về doanh thu, dòng tiền đối với ngân hàng tài trợ. Bên cạnh đó, cần phải thực hiện cam kết đầu tư đúng ngành nghề cốt lõi, hạn chế đầu tư ngoài lĩnh vực để phân bổ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi cấp tín dụng. Ngoài ra, DN cần nâng cao năng lực cạnh tranh, minh bạch tài chính, có phương án kinh doanh tốt, rõ ràng, mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác đầu ra, nâng cao khả năng tiêu thụ hàng hóa…
Phát biểu tại hội nghị, Phó thống đốc Đào Minh Tú cho hay, tính tới ngày 31/8, tín dụng nền kinh tế mới tăng 5,56% (cùng kỳ tăng 9,88%). DN đã ngấm khó khăn, song chưa ai có thể trả lời được khó khăn đã chạm đáy hay chưa. ĐBSCL là địa bàn chiến lược quan trọng, được NHNN quan tâm và ban hành nhiều chính sách hỗ trợ riêng, song tín dụng khu vực này từ đầu năm đến nay chỉ tăng 5,3%. Lý giải về tình trạng tín dụng ĐBSCL nói riêng, tín dụng toàn nền kinh tế nói chung tăng chậm, Phó thống đốc cho biết, khó khăn nhất là tiêu thụ sản phẩm, thị trường giảm, đơn hàng thiếu vắng, cầu của thị trường thế giới và trong nước đều giảm.
DN khó khăn tác động trực diện tới các ngân hàng. "Vốn ngân hàng hiện nay đang dư thừa, nói cách khác ngân hàng đang phải chữa bệnh thừa tiền. Chữa bệnh thiếu tiền đã khó nhưng chữa bệnh thừa tiền còn khó hơn. Nếu thiếu tiền, NHNN có thể cho vay tái cấp vốn, nhưng thừa tiền, thì NHNN cũng không "cứu" được", Phó thống đốc Đào Minh Tú cho biết. Với những đề xuất của các DN, lãnh đạo NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại phải linh hoạt hơn hạn mức tín dụng để gắn với mùa vụ, tín dụng đột xuất của từng DN cụ thể, tạo cơ chế nhanh để xử lý, một ngân hàng không làm được thì các ngân hàng cùng chung tay đồng tài trợ.
"Trong bối cảnh này, đẩy mạnh bơm tín dụng ra nền kinh tế là vấn đề được Chính phủ quan tâm. Tuy vậy, để có thể thúc đẩy tín dụng, cần có sự tháo gỡ từ hai phía. Từ phía DN, đầu tiên là phải gỡ khó về thị trường, về tạm trữ…, để DN có thể tiếp tục sản xuất kinh doanh, từ đó có nhu cầu vay vốn. Bởi ngân hàng không thể cho vay nếu DN cứ "xua tay" không cần vốn. Ngoài ra, cần tháo gỡ khó về mặt pháp lý cho DN bất động sản. Hiện nay, với nhiều dự án bất động sản, ngân hàng sẵn vốn nhưng không thể giải ngân vì thiếu pháp lý. Ngoài ra, với nhiều vấn đề, gỡ khó cho DN cần bàn tay của Chính phủ chứ riêng ngành ngân hàng không giải quyết được, ví dụ như câu chuyện xúc tiến thị trường, thúc đẩy hợp tác chiến lược với các nước… Đương nhiên, phía ngân hàng cũng phải tích cực phát huy vai trò chủ động, giảm thêm lãi vay và đơn giản hóa thủ tục để hỗ trợ khách hàng.