Ngân hàng tăng cường 'sức khỏe' đáp ứng yêu cầu mới
VietinBank vừa được NHNN chấp thuận việc tăng vốn điều lệ. Theo đó, ngân hàng sẽ phát hành gần 2,4 tỷ cổ phiếu để trả cổ tức bằng cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ phát hành là 44,64%. Với quy mô này, đây là đợt phát hành cổ phiếu trả cổ tức lớn nhất ngành Ngân hàng trong năm 2025. Sau phát hành, vốn điều lệ VietinBank dự kiến tăng thêm gần 24.000 tỷ đồng, từ gần 53.700 tỷ đồng lên gần 77.670 tỷ đồng.
Big 4 dẫn dắt cuộc đua tăng vốn
Trước đó, hai ngân hàng có vốn nhà nước là Vietcombank và BIDV cũng đã thông báo kế hoạch tăng vốn lớn trong năm nay. Cụ thể, Vietcombank đã phê duyệt phương án phân phối lợi nhuận năm 2023 và 2022 theo nguyên tắc phê duyệt của NHNN. Sau trích lập các quỹ, ngân hàng này sẽ dùng lợi nhuận còn lại của năm 2023, 2022 để chia cổ tức bằng cổ phiếu. Như vậy, nếu được cơ quan chức năng chấp thuận, Vietcombank có thể sớm phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ lên trên 100.000 tỷ đồng. Tại kỳ họp cổ đông thường niên năm nay, BIDV cũng đã thông qua phương án tăng vốn điều lệ thêm 21.656 tỷ đồng lên gần 91.870 tỷ đồng, tương đương tăng 30,8%, thông qua 3 phương án: tăng vốn từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, trả cổ tức và phát hành thêm.
Hiện nay, nhóm NHTM nhà nước nắm giữ hơn 50% thị phần tín dụng toàn hệ thống. Đây cũng là lực lượng chủ lực thực hiện các chủ trương, chính sách theo định hướng của Chính phủ và NHNN; Và để phục vụ nhu cầu tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn tới, việc tăng vốn cho nhóm ngân hàng này ngày càng cấp bách.
Ông Nguyễn Tất Thái, Phó Vụ trưởng Vụ Dự báo, thống kê - ổn định tiền tệ, tài chính (NHNN) chỉ ra một thực tế đáng lo ngại, vai trò dẫn dắt thị trường của các NHTM nhà nước đang có xu hướng suy giảm tương đối so với khối NHTM cổ phần tư nhân, xuất phát từ sự bất cân xứng giữa quy mô tài sản và năng lực vốn. Cụ thể, tuy nắm giữ tới 42% tổng tài sản của toàn hệ thống TCTD, nhưng quy mô vốn điều lệ của Big 4 lại chỉ chiếm vỏn vẹn 20%. Trong khi đó, các NHTM cổ phần chiếm 45% tổng tài sản nhưng lại nắm giữ tới 65% tổng vốn điều lệ toàn hệ thống. Sự chênh lệch này dẫn đến hệ quả tất yếu là thị phần của khối quốc doanh bị thu hẹp dần.
Thực tế, vốn điều lệ mỏng được ví như “chiếc áo quá chật”, đang đẩy các NHTM nhà nước đối mặt với những hệ lụy. Trước hết là áp lực lên hệ số an toàn vốn (CAR) tạo rào cản lớn trong việc đáp ứng các chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế như Basel II và Basel III. Bên cạnh đó, quy mô vốn mỏng khiến các ngân hàng vướng trần room tín dụng, hạn chế dư địa tài trợ cho các dự án trọng điểm quốc gia. Hệ quả bao trùm là vai trò dẫn dắt thị trường của Big 4 bị suy giảm, bởi khi phải chật vật co kéo để đảm bảo an toàn tài chính, các ngân hàng này sẽ gặp khó trong việc tiên phong thực hiện các chính sách hỗ trợ nền kinh tế.

Vietcombank có thể sớm phát hành cổ phiếu để tăng vốn điều lệ lên trên 100.000 tỷ đồng
Gia cố bộ đệm đáp ứng quy định mới
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 273/NQ-CP, trong đó yêu cầu NHNN đẩy nhanh việc tăng vốn điều lệ của các NHTM nhà nước.
Với vai trò là trụ cột của hệ thống, góp phần hỗ trợ thực hiện các chính sách của Nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế, nhóm NHTM Nhà nước hiện rất cần tăng vốn để dẫn dắt hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tại Thông tư 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã đưa khái niệm “ngân hàng quan trọng hệ thống”, trong đó NHNN yêu cầu các ngân hàng lớn tăng cường bộ đệm vốn như một lớp bảo vệ bổ sung nhằm đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống. Các ngân hàng như BIDV, VietinBank, Vietcombank gần như chắc chắn sẽ nằm trong danh sách này nên đòi hỏi phải tăng vốn mạnh trong thời gian tới, nhất là khi các ngân hàng trên từ lâu đã luôn tiệm cận ngưỡng CAR tối thiểu.
Ngoài Big 4, các NHTMCP cũng đang dồn dập kế hoạch tăng vốn. Mới đây nhất, NHNN vừa có văn bản chấp thuận kế hoạch tăng vốn điều lệ của HDBank thông qua phương án trả cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu, với tổng tỷ lệ phát hành lên tới 30%. Theo phương án được thông qua, HDBank sẽ chi trả cổ tức năm 2024 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 25%, đồng thời phát hành tối đa 5% cổ phiếu thưởng. Sau đợt phát hành, vốn điều lệ của HDBank dự kiến tăng từ 38.594 tỷ đồng lên hơn 50.000 tỷ đồng. Trước đó, đầu tháng 10, TPBank cũng được NHNN chấp thuận tăng vốn điều lệ từ 26.420 tỷ đồng lên mức hơn 27.740 tỷ đồng, thông qua phương án phát hành 132 triệu cổ phiếu (5%) để chi trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu…
Theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam, có nhiều yếu tố khiến các ngân hàng dồn dập tăng vốn. Cơ quan quản lý yêu cầu các TCTD phải dần đáp ứng chuẩn mực an toàn vốn ngày càng khắt khe. Đơn cử, Thông tư 14/2025/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đã yêu cầu các ngân hàng không chỉ tăng vốn điều lệ mà còn phải củng cố vốn tự có. Đây là điều kiện tiên quyết để duy trì an toàn hệ thống và nâng cao khả năng chống chịu trước rủi ro. Ngoài ra, động lực để các ngân hàng tăng vốn còn đến từ sự canh tranh ngày càng gay gắt trong bối cảnh hội nhập buộc chúng ta phải chuẩn bị để đối đầu với các định chế tài chính nước ngoài ngay trên sân nhà. Khi vốn điều lệ ở mức thấp, nhiều giới hạn pháp lý sẽ trực tiếp thu hẹp dư địa kinh doanh, trong đó có tăng trưởng tín dụng. Do đó, việc tăng vốn sẽ mở rộng “không gian” hoạt động, giúp ngân hàng nâng cao năng lực cung ứng tín dụng và dịch vụ, từ đó phục vụ nền kinh tế hiệu quả hơn.
Cùng quan điểm, TS. Châu Đình Linh, Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh cho rằng, tăng vốn chính là gia tăng “sức khỏe” để ngân hàng có thể ứng phó với những rủi ro xảy ra. Nợ xấu của ngành Ngân hàng vẫn luôn là một mối lo, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều yếu tố bất định như hiện nay. Nếu có một bộ đệm vốn tốt, ngân hàng sẽ vững vàng trước thách thức. Và việc có một “sức khỏe” nội tại tốt sẽ là một điều kiện quan trọng để cơ quan quản lý trao quyền chủ động hơn cho TCTD trong việc tăng trưởng tín dụng. TS. Châu Đình Linh đánh giá, xu hướng tăng vốn của các ngân hàng sẽ tiếp tục trong những năm tới để đáp ứng các chỉ tiêu về an toàn tài chính, củng cố nguồn lực đáp ứng nhu cầu vốn, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cao trong năm 2026 và các năm tiếp theo.
Tuy nhiên, con đường tăng vốn không phải luôn trải hoa hồng. Các chuyên gia nhấn mạnh, các nhà băng có quy mô lớn, thương hiệu mạnh có thể tăng vốn tốt hơn, còn đối với nhóm ngân hàng trung bình, nhỏ chắc chắn sẽ gặp ít nhiều thách thức. Để hóa giải được khó khăn, ngân hàng cần đặt ra một lộ trình rõ ràng dựa trên phân tích cụ thể hiện trạng của mình. Ngoài ra, vốn chỉ là điểm khởi đầu. Điều quan trọng hơn là sử dụng đồng vốn hiệu quả, nâng cao năng lực quản trị. Đặc biệt, cần chủ động nhận diện và lường trước những rủi ro mới như nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh nếu không bắt kịp công nghệ và chuyển đổi số.


































