Ngăn chặn 'trục lợi chính sách' trong phát triển năng lượng quốc gia
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh không được để xảy ra trục lợi chính sách trong xây dựng cơ chế phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030.
Theo Chủ tịch Quốc hội, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 – 2030 được Chính phủ trình tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV mang tính định hướng cho giai đoạn tới, nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 70 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đây không phải là văn bản để tháo gỡ khó khăn trước mắt mà là nền tảng triển khai các mục tiêu dài hạn.
Rõ trách nhiệm khi xảy ra trục lợi chính sách
Chủ tịch Quốc hội lưu ý nhiều dự án điện gắn liền với yêu cầu về quốc phòng, an ninh, do đó cơ chế đặc thù để tạo thông thoáng trong phát triển năng lượng phải đồng thời bảo đảm an toàn, minh bạch và ngăn ngừa nguy cơ trục lợi. “Nếu để xảy ra trục lợi chính sách thì phía cơ quan điều hành là Chính phủ, Bộ Công thương phải chịu trách nhiệm trực tiếp”, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ.
Tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (đoàn Cần Thơ) bày tỏ lo ngại về quy định liên quan đến “điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong quy hoạch tỉnh” và “đầu tư xây dựng dự án điện lực”. Theo ông, các nội dung này có thể bị lợi dụng để hợp thức hóa điều chỉnh tùy tiện, mở rộng thẩm quyền hoặc áp dụng sai đối tượng, tiềm ẩn rủi ro về minh bạch và lợi ích nhóm.
Dẫn chiếu quy định trong dự thảo nêu “điều chỉnh quy hoạch để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, đại biểu cho rằng thuật ngữ “tổ chức, cá nhân” chưa được xác định cụ thể. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, quy hoạch có thể bị điều chỉnh bất cứ lúc nào, làm giảm tính ổn định và khả năng dự báo của hệ thống chính sách.
Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh cũng chỉ ra dự thảo chưa đề cập tới các tiêu chí định lượng, đánh giá tác động hoặc cơ chế xác định tình huống “đột biến”, từ đó tạo khoảng trống cho việc vận dụng linh hoạt quá mức.
Theo ông, điều này có thể tạo tiền đề cho điều chỉnh theo nhu cầu dự án riêng lẻ, làm suy giảm tính khoa học của quy hoạch, gây mất cân đối giữa nguồn – lưới điện, thậm chí lặp lại các bài học đã xảy ra đối với điện mặt trời khi công suất phát triển quá nhanh, không đồng bộ với hạ tầng truyền tải.
Vì vậy, đại biểu đề nghị chỉ áp dụng cơ chế miễn thủ tục điều chỉnh quy hoạch trong trường hợp thật sự khẩn cấp, có tính bất khả kháng theo Luật Điện lực; đồng thời yêu cầu quy định rõ trách nhiệm báo cáo, giải trình với Chính phủ và Quốc hội để bảo đảm kiểm soát quyền lực và hạn chế nguy cơ lạm dụng.
Ở góc độ khác, đại biểu Nguyễn Hữu Toàn (đoàn Lai Châu) cho rằng nội dung “điều chỉnh linh hoạt” cho phép các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách được triển khai ngay cả khi chưa phù hợp với các quy hoạch liên quan và quy hoạch sẽ điều chỉnh theo dự án sau.
Theo ông, đề xuất này đi ngược nguyên tắc “quy hoạch phải đi trước”, có thể gây khó khăn trong việc cân đối giữa phát triển kinh tế, năng lượng và bảo vệ môi trường.
Đại biểu Nguyễn Hữu Toàn kiến nghị xây dựng một trình tự thủ tục quy hoạch đặc biệt, rút gọn hơn cả thủ tục rút gọn hiện hành để đảm bảo tiến độ nhưng vẫn giữ nguyên nguyên lý quy hoạch đi trước. Ông cũng lưu ý nội dung hướng dẫn quy hoạch trong dự thảo đang quá cụ thể (tên gọi, quy mô, công suất, tiến độ, địa điểm hành chính, điểm đấu nối), dễ dẫn đến gia tăng thủ tục hành chính và chi phí cho doanh nghiệp.
Do đó, đại biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Công thương rà soát, điều chỉnh nội dung và nội hàm của quy hoạch phát triển điện lực theo hướng mang tính định hướng, giảm tối đa thủ tục hành chính không cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng vẫn bảo đảm tuân thủ kỷ luật quy hoạch.
Bài học "vỡ quy hoạch điện"
Liên quan đến bài học vỡ quy hoạch điện, hai năm trước, Thanh tra Chính phủ kết luận công tác quản lý phát triển điện mặt trời có dấu hiệu buông lỏng từ Bộ Công thương. Điển hình, Bộ Công thương phê duyệt bổ sung và tham mưu Thủ tướng phê duyệt bổ sung 154 dự án điện mặt trời (ĐMT) với tổng công suất khoảng 13.840MW không có căn cứ, cơ sở pháp lý về quy hoạch.
Trong đó, 123 dự án được duyệt với tổng công suất khoảng 8.500MW có tiến độ vận hành trong giai đoạn 2016-2020 là nguyên nhân chính dẫn đến mất cân đối giữa nguồn và lưới, mất cân đối về cơ cấu nguồn điện, vùng miền, gây khó khăn cho quản lý vận hành hệ thống điện, lãng phí nguồn lực xã hội.
Đồng thời, Bộ Công thương phê duyệt bổ sung vào Quy hoạch điện lực cấp tỉnh 114 dự án ĐMT (tổng công suất 4.166MW) có tiến độ vận hành trong giai đoạn 2016-2020. Trong số này, 92 dự án (3.194MW) được phê duyệt bổ sung riêng lẻ vào Quy hoạch phát triển điện lực của 23 tỉnh trên cơ sở đề nghị của UBND các tỉnh xuất phát từ đề nghị của các chủ đầu tư.
Trong 23 tỉnh nêu trên, 15 tỉnh không quy hoạch đầu tư ĐMT trong quy hoạch phát triển điện lực tỉnh và không có quy hoạch ĐMT đến năm 2020 của 63 tỉnh, thành phố được lập, phê duyệt theo quy định tại Quyết định 11/2017 của Thủ tướng.
Hệ lụy và công tác khắc phục theo hướng đảm bảo không hợp thức hóa sai phạm – chống lãng phí của thực trạng trên đã kéo dài gần hai năm nay, thậm chí ảnh hưởng tới tiến trình thực hiện Quy hoạch điện VIII mới đây.
Đơn cử, tháng 4/2025, Lâm Đồng – một trong các thủ phủ về năng lượng tái tạo - báo cáo về duyệt bổ sung các dự án điện mặt trời vào quy hoạch điện lực giai đoạn 2016-2020 để phục vụ điều tra vụ án xảy ra tại Bộ Công thương theo yêu cầu của Bộ Công an.
Trước đó, tháng 9/2024, Bộ Công thương cho biết chưa có cơ sở để tham mưu Chính phủ về hướng xử lý đối với các dự án ĐMT khi cơ quan an ninh điều tra, Bộ Công an cho rằng, cần có thời gian để rà soát toàn bộ các dự án – tức, việc thực hiện Quy hoạch điện VIII phải chờ kết luận về 154 dự án ĐMT gặp vi phạm.
Dự thảo Nghị quyết phát triển năng lượng 2026–2030 gồm 8 chương, 24 điều, với một số nội dung chính như: Phạm vi và đối tượng áp dụng; giải thích các thuật ngữ liên quan; Điều chỉnh linh hoạt quy hoạch: nguyên tắc, căn cứ, quy trình và thẩm quyền nhằm xử lý các vướng mắc thực tiễn như chậm tiến độ, thay đổi cấp điện áp, phương án đấu nối, phát sinh nhu cầu phụ tải; Chính sách đầu tư dự án điện lực: bỏ thủ tục chủ trương đầu tư đối với dự án lưới điện; Lựa chọn nhà đầu tư dự án truyền tải...

































