Nâng cao năng lực phối hợp trong quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô
Kinh tế thế giới biến động phức tạp, rủi ro đan xen đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý, điều hành nền kinh tế. Việc Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo về quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô (KTVM) phản ánh yêu cầu cần nâng cao hơn nữa năng lực phối hợp chính sách, giữ vững nền tảng ổn định để tạo dư địa cho tăng trưởng cao giai đoạn 2026 - 2030.
Điều hành KTVM không còn là bài toán của từng chính sách đơn lẻ
Đại dịch Covid-19, các cú sốc lạm phát toàn cầu, xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ tại nhiều nền kinh tế lớn, xung đột địa chính trị, đứt gãy chuỗi cung ứng, thuế quan… đã liên tục tạo ra những sức ép lớn lên điều hành KTVM trong những năm gần đây. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã phải vận dụng đồng thời nhiều công cụ chính sách nhằm vừa ứng phó với khó khăn trước mắt, vừa duy trì nền tảng cho phục hồi và tăng trưởng.
Thực tiễn điều hành cho thấy, khi các cú sốc diễn ra với tần suất dày hơn và mức độ lan tỏa lớn hơn, việc mỗi chính sách được thiết kế và triển khai đúng vẫn chưa đủ, mà sự phối hợp hiệu quả còn quan trọng hơn. Một chính sách tài khóa mở rộng nếu không được phối hợp nhịp nhàng với chính sách tiền tệ có thể tạo sức ép lên lạm phát, tỷ giá, lãi suất… và ngược lại. Điều hành KTVM vì vậy không còn là bài toán của từng chính sách đơn lẻ, mà trở thành bài toán tổng hợp, đòi hỏi năng lực phối hợp ngày càng cao giữa các công cụ và các chủ thể tham gia điều hành.
Các giải pháp, chính sách đưa ra từ mỗi bộ, ngành - theo chức năng, nhiệm vụ được phân công - có ưu điểm là bảo đảm tính tuân thủ pháp lý và trách nhiệm chuyên môn của từng cơ quan, song cũng bộc lộ những hạn chế khi phải xử lý các vấn đề mang tính liên ngành, liên lĩnh vực và có tác động lan tỏa lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Do đó, sự khác biệt căn bản giữa phối hợp hành chính và điều phối chiến lược nằm ở tư duy tiếp cận vấn đề. Nếu phối hợp hành chính thiên về việc “làm đúng phần việc của mình”, thì điều phối chiến lược, liên ngành đòi hỏi đặt các chính sách trong mối quan hệ tương tác tổng thể, đánh giá đầy đủ các tác động chéo và hệ quả trung, dài hạn.
Trong bối cảnh các bất định, rủi ro ngày càng mang tính hệ thống và đan xen với nhau, việc có một cơ chế điều phối sẽ giúp giảm độ trễ trong phản ứng chính sách, trong khi tăng hiệu quả điều hành chung. Việc thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ về quản lý, điều hành KTVM vì vậy cần được nhìn nhận như một bước “nâng cấp” tư duy điều hành. Ban Chỉ đạo không thay thế vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành, cũng không làm thay đổi thẩm quyền theo luật định, mà nhằm tăng cường khả năng phối hợp liên ngành trong điều hành nền kinh tế. Tư duy điều phối chiến lược cũng phù hợp với thông lệ quản trị kinh tế hiện đại, khi vai trò của Nhà nước không chỉ là ban hành chính sách, mà còn là “nhạc trưởng” điều phối các công cụ chính sách. Theo đó, năng lực điều hành không chỉ được đo bằng phản ứng nhanh trước các cú sốc, mà còn bằng khả năng dự báo, chuẩn bị và phối hợp để giảm thiểu rủi ro ngay từ sớm.
Nhìn dưới góc độ đó, một trong những giá trị lớn nhất mà một cơ chế điều phối liên ngành mang lại nằm ở việc giảm thiểu “xung đột” và độ trễ chính sách. Khi các quyết sách về tài khóa, tiền tệ, đầu tư công hay thương mại được đặt trong cùng một “bức tranh tổng thể”, khả năng nhận diện sớm những tác động chéo sẽ được cải thiện đáng kể. Điều này giúp hạn chế tình trạng một chính sách phát huy hiệu quả trong ngắn hạn nhưng có thể tạo ra rủi ro cho ổn định vĩ mô trong trung và dài hạn.
Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng, những rủi ro bên ngoài có thể nhanh chóng lan truyền, tác động vào trong nước, đòi hỏi năng lực phân tích và phối hợp chính sách ở tầm cao hơn. Do đó, thay vì chỉ phản ứng mang tính tình huống trước các diễn biến, vấn đề bất lợi phát sinh, cơ chế điều phối thông qua cách tiếp cận liên ngành cho phép Chính phủ chủ động hơn trong hoạch định và phản ứng chính sách, dựa trên đánh giá toàn diện về các kịch bản và rủi ro tiềm ẩn.
Một giá trị gia tăng quan trọng khác là tăng cường tính nhất quán trong thông điệp điều hành. Khi các chính sách được điều phối chặt chẽ, thông điệp gửi tới thị trường, doanh nghiệp và nhà đầu tư sẽ rõ ràng và nhất quán hơn, qua đó củng cố niềm tin vào năng lực quản lý, điều hành KTVM của Chính phủ. Niềm tin này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều bất định, bởi nó giúp giảm thiểu các phản ứng thái quá và tạo nền tảng cho các quyết định đầu tư dài hạn.

Ổn định là “pháo đài bất khả xâm phạm”
Việc tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành không đồng nghĩa với can thiệp sâu vào từng chính sách cụ thể. Ngược lại, một cơ chế điều phối hiệu quả sẽ tôn trọng vai trò và tính độc lập tương đối của từng công cụ chính sách, đồng thời bảo đảm các quyết định được đưa ra trên cơ sở cân nhắc hài hòa giữa các mục tiêu ổn định và tăng trưởng. Ở góc độ này, giá trị của cơ chế điều phối không nằm ở việc mở rộng quyền lực điều hành, mà ở việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình ra quyết định.
Năm 2026, Việt Nam đứng trước yêu cầu vừa phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao hơn để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển trung và dài hạn, vừa phải bảo đảm ổn định KTVM trong bối cảnh rủi ro bên ngoài gia tăng. Dư địa chính sách, cả về tài khóa lẫn tiền tệ, được dự báo sẽ không còn dồi dào như trước đây, trong khi áp lực từ lạm phát, tỷ giá, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế vẫn hiện hữu.
Trong bối cảnh đó, vai trò của cơ chế phối hợp liên ngành càng trở nên quan trọng. Việc phối hợp chặt chẽ các chính sách không chỉ giúp tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực, mà còn tạo điều kiện để Chính phủ chủ động hơn trong việc ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài. Ổn định KTVM tiếp tục được xác định là nền tảng, là điều kiện tiên quyết để duy trì tăng trưởng bền vững. Như Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh, ổn định là “pháo đài bất khả xâm phạm”; phát triển nhanh, bền vững là động cơ vĩnh cửu, không có điểm dừng; giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc của người dân là mục tiêu cao nhất; không hy sinh tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng đơn thuần.
Một cơ chế điều phối hiệu quả sẽ giúp cân bằng tốt hơn giữa mục tiêu tăng trưởng và yêu cầu ổn định, tránh những quyết định mang tính đánh đổi ngắn hạn. Đồng thời, điều này cũng tạo dư địa cho việc triển khai các chính sách mang tính chiến lược, hướng tới nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng và khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc trong tương lai. Dù được thiết kế với mục tiêu rõ ràng, hiệu quả của cơ chế điều phối trong quản lý, điều hành KTVM vẫn phụ thuộc rất lớn vào cách thức vận hành trên thực tế. Cơ chế chỉ thực sự phát huy vai trò khi gắn với kỷ luật phối hợp chặt chẽ, chia sẻ thông tin kịp thời và sự tuân thủ nghiêm túc của các chủ thể tham gia điều hành.
Theo Quyết định số 2748/QĐ-TTg ngày 18/12/2025 về thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ về quản lý, điều hành KTVM (Ban Chỉ đạo), Thủ tướng Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo. Hai Phó Trưởng Ban Chỉ đạo gồm Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc (Phó Trưởng Ban Thường trực) và Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng. Các thành viên Ban Chỉ đạo gồm: Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng; Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh; Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng; Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đỗ Thanh Bình; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn…
Ban Chỉ đạo là tổ chức phối hợp liên ngành, có chức năng giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành trong quản lý, điều hành KTVM; đồng thời tư vấn, đề xuất phương hướng, giải pháp và đôn đốc các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các quyết sách liên quan. Bộ Tài chính được giao làm cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo, chịu trách nhiệm bảo đảm điều kiện hoạt động và thành lập Tổ điều phối KTVM để giúp việc Ban Chỉ đạo. Trong trường hợp cần thiết, Ban Chỉ đạo và Tổ điều phối được huy động các chuyên gia trong và ngoài nước để nghiên cứu, tư vấn, đề xuất phương hướng, giải pháp thực hiện các nhiệm vụ được giao và được thực hiện cơ chế đặt hàng nghiên cứu với các cơ quan, tổ chức, chuyên gia.































