Muốn xuất khẩu gạo, phải vượt ải… kho chứa?

Sau ủy thác, doanh nghiệp ngành gạo muốn tiếp tục 'cuộc chơi' phải đáp ứng quy định sở hữu kho chứa thay vì đi thuê. Rào cản mới này có thể tạo thêm gánh nặng lớn đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, nhất là đơn vị vừa và nhỏ.

Kết quả xuất khẩu gạo, bao gồm khối lượng, kim ngạch và giá bán bình quân giai đoạn từ 2019-2024, tức từ sau khi nghị định 107 có hiệu lực.

Kết quả xuất khẩu gạo, bao gồm khối lượng, kim ngạch và giá bán bình quân giai đoạn từ 2019-2024, tức từ sau khi nghị định 107 có hiệu lực.

Bộ Công Thương vừa có dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP và Nghị định 01/2025/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo. Những thay đổi trong dự thảo được cho là sẽ tiếp tục đẩy doanh nghiệp ngành gạo vào thế khó...

Doanh nghiệp gạo “chết” tiếp?

Đầu năm nay, Nghị định 01/2025/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP ngày 15-8-2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo đã được ban hành. Trong đó, điểm thay đổi đáng lưu ý ở lần này là “thương nhân có giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo chỉ được ủy thác hoặc nhận ủy thác xuất khẩu từ thương nhân đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo”.

Điều khoản nêu trên mở ra để “hợp lý hóa” cho hợp đồng cấp Chính phủ, tức một đơn vị (thường là Tổng công ty lương thực miền Nam- Vinafood 2 hoặc Tổng công ty lương thực miền Bắc- Vinafood 1) làm đại diện của Việt Nam đi ký hợp đồng cấp Chính phủ với nước ngoài, sau đó phân chia lại hợp đồng cho doanh nghiệp khác trong nước.

Tuy nhiên, quy định nêu trên đã “giết chết” hàng trăm doanh nghiệp thương mại nhỏ - vốn là những đơn vị chưa đủ điều kiện để được cấp giấy phép xuất khẩu khẩu gạo trực tiếp - vì không tiếp tục được ủy thác xuất khẩu gạo.

Thay đổi chưa lâu, nay Bộ Công Thương lại tiếp tục có dự thảo mới để sửa đổi, thay thế Nghị định 01/2025/NĐ-CP và 107/2018/NĐ-CP. Trong đó, để được cấp giấy phép kinh doanh xuất khẩu gạo, doanh nghiệp phải sở hữu kho chứa và có dự trữ 1.250 tấn thay vì được thuê như quy định hiện hành.

Lý giải của Ban soạn thảo, việc thay đổi nêu trên do có tình trạng thương nhân thuê kho chứa chỉ để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, không quan tâm đến duy trì kho chứa hoặc để bên cho thuê sử dụng/tổ chức gia công, chế biến cho đơn vị khác.

“Trong nhiều trường hợp, thương nhân thuê không nắm được thông tin, địa chỉ kho chứa, cơ sở xay xát lúa gạo để phối hợp trong công tác hậu kiểm điều kiện kinh doanh và kiểm tra thi hành pháp luật về kinh doanh xuất khẩu gạo của Bộ Công Thương, dẫn đến tình trạng các Sở Công Thương chưa kịp thời hậu kiểm theo quy định”, dự thảo tờ trình viết.

Tuy nhiên, quy định mới như nêu trên được cho là sẽ tiếp tục đẩy doanh nghiệp ngành gạo rời khỏi cuộc chơi. Bởi lẽ, không ít đơn vị sẽ gặp khó để đáp ứng quy định này, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Quy định sở hữu kho chứa tạo áp lực lớn cho doanh nghiệp. Trong ảnh là kho gạo tại chợ đầu mối lương thực Bà Đắc, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang Ảnh: Trung Chánh

Quy định sở hữu kho chứa tạo áp lực lớn cho doanh nghiệp. Trong ảnh là kho gạo tại chợ đầu mối lương thực Bà Đắc, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang Ảnh: Trung Chánh

Kiểm soát thực tế thay vì áp đặt?

Liên quan câu chuyện nêu trên, trao đổi với KTSG Online, bà Dương Thanh Thảo, Giám đốc Công ty cổ phần Gạo Ông Thọ, nhấn mạnh dự thảo nghị định mới có nhiều bất cập. Trong đó, quy định “sở hữu” kho chứa thay vì áp đặt sở hữu, gây khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ/doanh nghiệp gia công, thì cơ quan quản lý hoàn toàn có thể kiểm soát hoạt động thực tế.

“Việc phát hiện doanh nghiệp không vận hành mà để thương nhân khác sử dụng kho là điều không khó”, bà Thảo nhấn mạnh và cho biết, khi phát hiện sai phạm, cơ quan quản lý có thể thu hồi giấy phép, xử lý nghiêm doanh nghiệp vi phạm.

Có một thực tế đang diễn ra, hiện nay nhiều doanh nghiệp thuê kho hoặc hợp tác gia công vẫn vận hành hiệu quả. “Ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn dù có kho riêng, nhưng khi xử lý các đơn hàng lớn họ vẫn gom hàng và gia công tại nhiều kho cung ứng để tiết kiệm chi phí logistics, giảm áp lực vận hành tại một điểm tập trung”, bà Thảo cho biết.

Một quan điểm được đưa ra nhằm bảo vệ quy định yêu cầu doanh nghiệp phải sở hữu kho, đó là việc thuê kho giúp giảm chi phí, tạo lợi thế giá bán, nhưng khiến doanh nghiệp khác khó cạnh tranh.

Tuy nhiên, theo bà Thảo, quan điểm nêu trên là cách tiếp cận mang tính quản lý theo cơ chế phi thị trường. Bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp được “khuyến khích” tìm mọi cách hợp pháp để tối ưu chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh. “Việc thuê kho, gia công để giảm giá thành là chiến lược phổ biến và hợp lý”, bà nói.

Điều đáng lưu ý hơn, cạnh tranh trong ngành gạo hiện nay không chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp trong nước, mà còn là “cuộc đua” với các nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar và nhiều quốc gia khác. Do đó, hạn chế doanh nghiệp linh hoạt trong mô hình vận hành có thể làm giảm sức cạnh tranh của ngành gạo trên thị trường quốc tế.

Còn nhìn vào con số cụ thể, bà Thảo cho biết, để có một nhà máy nhỏ vận hành theo đúng quy định của dự thảo này, doanh nghiệp phải đầu tư ít nhất trên 30 tỉ đồng. “Bên mình làm một cái kho khoảng 2.000 m2 ở Tiền Giang, chỉ riêng tiền đất và tiền kho, tức chưa có máy móc thiết bị đã gần 20 tỉ đồng”, bà dẫn chứng.

Vốn lưu động cho doanh nghiệp ngành gạo hoạt động đã là một áp lực vô cùng lớn, thì việc đáp ứng thêm tiêu chí mới của dự thảo nghị định sẽ càng áp lực hơn.

Trao đổi với KTSG Online bên lề một hội thảo ngành gạo mới đây ở thành phố Cần Thơ, ông Trần Tuấn Kiệt, Giám đốc Công ty TNHH Lương thực thực phẩm xuất nhập khẩu miền Nam, cho biết hoạt động trong lĩnh vực gạo, nếu tài sản cố định (máy móc nhà xưởng) hình thành bằng vốn tự có, tức không vay ngân hàng và chủ động 50% vốn lưu động trên tổng tài sản cố định, thì hoạt động rất thuận lợi.

Tuy nhiên, doanh nghiệp đáp ứng được tiêu chí nêu trên không nhiều, tức việc hình thành tài sản cố định và vốn hoạt động phụ thuộc vào nguồn vay ngân hàng. Do đó, doanh nghiệp chịu áp lực rất lớn.

Chẳng hạn, một đơn vị vận hành kho sức chứa 10.000 tấn, phần vốn lưu động thu mua sản phẩm phải ở mức khoảng 100 tỉ đồng (tương đương giá thu mua quy gạo 10.000 đồng/kg), trong khi để hình thành tài sản cố định (kho xưởng) hoạt động xuất khẩu ổn định phải đầu tư ở mức 150 tỉ đồng.

Theo ông Kiệt, vốn lưu động vay ngắn hạn (kỳ hạn 6 tháng với doanh nghiệp được ngân hàng xếp loại tốt và 3 tháng với doanh nghiệp chưa tốt), trong khi tài sản cố định hình thành bằng vốn vay trung và dài hạn, có thời gian vay khoảng 5-7 năm.

Áp lực trả nợ lãi vay rất lớn buộc doanh nghiệp phải hoạt động sản xuất liên tục, tức nhập hàng và bán ra liên tục để nuôi bộ máy và trả nợ lãi vay. “Nếu không hoạt động mà lấy ngắn nuôi dài, tức lấy vốn lưu động trả nợ lãi vay cho trung và dài hạn, doanh nghiệp bị “gãy” ngay”, ông Kiệt cho biết.

Với đặc điểm nêu trên, rõ ràng việc doanh nghiệp “thuê” chính là cách để tối ưu hóa chi phí, giảm bớt gánh nặng tài chính. Điều này, cũng có thể giúp giá thành sản phẩm ngành gạo Việt Nam cạnh tranh hơn so với đối thủ xuất khẩu của các nước.

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trong góp ý Bộ Công thương về dự thảo sửa đổi nghị định nêu trên cũng đề nghị bỏ quy định doanh nghiệp phải sở hữu kho chứa và dự trữ 1.250 tấn.

VCCI cho rằng, quy định nêu trên gây khó khăn về tài chính khi chi phí gia nhập thị trường tăng cao, gây khó khăn cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, trái với tinh thần kinh tế thị trường…

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/muon-xuat-khau-gao-phai-vuot-ai-kho-chua/
Zalo