Mục tiêu tăng trưởng 10% và nguồn vốn 1.400 tỷ USD: Huy động từ nguồn nào?
Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai chữ số (10%) từ năm 2026, Việt Nam cần một lượng vốn khổng lồ, dự kiến khoảng 1.400 tỷ USD hay khoảng 280 tỷ USD/năm trong 5 năm tới. Trong đó, hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng tiếp tục được xác định là trụ cột bên cạnh việc phát triển các mô hình mới…

Toàn cảnh phiên thảo luận.
Mở đầu phiên thảo luận với chủ đề “Thị trường tài chính – Trụ cột và động lực tăng trưởng Việt Nam” thuộc Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026, TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni, cho biết Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 10% từ 2026, điều này có nghĩa là nếu mục tiêu tăng trưởng thực là 10%, cộng thêm 3% lạm phát, thì GDP danh nghĩa là 13%.
“Để đạt được mức này, tăng trưởng tín dụng phải vượt qua tăng trưởng GDP danh nghĩa khoảng 2-3 điểm phần trăm, nghĩa là khoảng 15%/năm từ nay đến 2030”, ông Tú Anh phân tích. “Như vậy, trong 5 năm tới, tín dụng sẽ phải tăng gấp đôi”.
1.400 tỷ USD VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG
Theo ông, dù rất mong muốn thị trường vốn phát triển để san sẻ gánh nặng, nhưng trong trung hạn 15 năm tới, Việt Nam vẫn sẽ là nền kinh tế bank-based system (hệ thống tăng trưởng và huy động vốn dựa vào ngân hàng).
Lý do căn bản là “bản chất của thị trường tài chính là kinh doanh rủi ro”. Ngân hàng là nơi chuyên môn hóa trong việc thu thập, xử lý thông tin và quản lý rủi ro, đặc biệt hiệu quả hơn với sự hỗ trợ của công nghệ số. Trong khi đó, trên thị trường vốn, các cá nhân phải tự “deal rủi ro”, một việc quá sức với thị trường đang phát triển, hệ thống quản trị và pháp luật chưa đủ chặt chẽ như Việt Nam.
Đồng tình với ý kiến về vai trò trụ cột của ngân hàng trong những năm tới, nhưng ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam, cho rằng con số 134% tín dụng/GDP vẫn rất an toàn. Ông lý giải, giai đoạn 2013-2022, tín dụng tăng mạnh chủ yếu từ cho vay bán lẻ nhưng từ năm 2024 đến nay, cho vay doanh nghiệp đang trở thành động lực chính của tăng trưởng tín dụng.
Đây không chỉ là hướng đi đúng mà theo ông Thành, dư địa cho vay doanh nghiệp (sản xuất) còn rất lớn. Trong đó, trong ngắn hạn, động lực chính sẽ đến từ hạ tầng và năng lượng. Theo tính toán của Bộ Tài chính, để đạt tăng trưởng 10%, tổng vốn đầu tư 5 năm tới cần khoảng 1.400 tỷ USD, bình quân mỗi năm khoảng 280 tỷ USD. FDI chỉ chiếm một phần nhỏ (24-30 tỷ USD), còn lại hơn 250 tỷ USD/năm phải đến từ khu vực trong nước (Chính phủ và tư nhân).
“Chính phủ hiện đang khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư hạ tầng và năng lượng. Tôi cho rằng “miếng bánh” này đang mở rộng và khi doanh nghiệp tư nhân tham gia, ngân hàng sẵn sàng tài trợ”, ông Thành nhận định.
XU HƯỚNG TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH ĐA NGÀNH
Nhìn về giai đoạn 5 năm tới, ông Thành cho rằng khi các doanh nghiệp tư nhân là lực lượng tiên phong thì các ngân hàng tư nhân cũng sẽ có bước phát triển vượt trội khi tiên phong đi cùng các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh vai trò trụ cột của các ngân hàng thương mại nhà nước trong việc điều tiết thanh khoản và đặc biệt là nâng hạng tín nhiệm quốc gia.
“Muốn thị trường trái phiếu đủ rộng, đủ sâu, có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài với chi phí vốn hợp lý, trước hết chúng ta phải nâng hạng tín nhiệm quốc gia. Muốn vậy, sức khỏe của hệ thống ngân hàng phải được cải thiện, thể hiện rõ qua tỷ lệ an toàn vốn (CAR)”, ông Thành phân tích và cho rằng cần tăng cường sức mạnh tài chính cho nhóm ngân hàng nhà nước, cho phép họ chủ động hơn trong việc quản lý lợi nhuận để giữ lại, nâng cao CAR.
Không chỉ dẫn vốn, ngân hàng còn là lực lượng đi đầu trong đổi mới sáng tạo. TS. Nguyễn Tú Anh khẳng định mục tiêu 10% “phụ thuộc lớn vào việc chúng ta có thành công trong chuyển đổi số hay không”. Ngành ngân hàng đang đi đầu, tạo hiệu ứng lan tỏa qua thanh toán, định danh điện tử (KYC), kích thích các lĩnh vực khác số hóa.
Các mô hình ngân hàng mở (open banking) và ngân hàng chia sẻ dữ liệu và chức năng với các bên thứ ba như fintech (API) đang thay đổi “luật chơi” tài chính, giúp ngân hàng tiếp cận và hỗ trợ tốt hơn cho mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030, đặc biệt là các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua Big Data và AI để định giá tín nhiệm.
Chính sự tích tụ vốn, năng lực công nghệ và nhu cầu đa dạng của khách hàng đã thúc đẩy xu hướng tất yếu: hình thành các tập đoàn tài chính (financial conglomerate).
TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế, cho rằng xu hướng này là tất yếu, không chỉ trong ngân hàng mà ở nhiều lĩnh vực. Khi tích tụ đủ vốn, doanh nghiệp có xu hướng đa ngành, mở rộng sang chứng khoán, bảo hiểm, quản lý quỹ.

TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni và TS. Nguyễn Minh Cương, Chuyên gia kinh tế chia sẻ tại phiên thảo luận.
Ông Quản Trọng Thành bổ sung, xu hướng này xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường. Cả khách hàng cá nhân và doanh nghiệp đều cần một hệ sinh thái dịch vụ tài chính trọn gói. “Bất kỳ ngân hàng nào muốn tham gia nghiêm túc vào lĩnh vực Wealth Management (quản lý tài sản) đều phải có xu hướng hướng tới mô hình tập đoàn tài chính”, ông Thành nói.
Tuy nhiên, mô hình này đang tạo ra một “độ vênh” lớn. TS. Nguyễn Minh Cường cảnh báo: “Sẽ có một độ “vênh” rất lớn khi đặt phát triển tập đoàn tài chính trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa trưởng thành”.
Vấn đề lớn nhất, theo ông Cường, là năng lực quản lý. “Cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam dù đã có cải tổ, nhưng tốc độ vẫn chậm so với sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Liệu nhà nước có quản lý nổi không? Và nếu không, nguy cơ như sở hữu chéo, rủi ro hệ thống... hoàn toàn có thể xảy ra”, ông Cương cho biết.
TS. Nguyễn Tú Anh lại nhìn thấy một khoảng trống pháp luật cần lấp đầy: đó là ngân hàng đầu tư (investment bank). Ông cho rằng Việt Nam chưa có luật về ngân hàng đầu tư, gây rủi ro khi ngân hàng thương mại phải gồng gánh vốn dài hạn. Ngân hàng đầu tư sẽ là cầu nối giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, giúp chứng khoán hóa các khoản vay dài hạn (như dự án hạ tầng), giúp ngân hàng rút vốn ngắn hạn về để tái đầu tư. Hơn nữa, nó cho phép ngân hàng đầu tư vào doanh nghiệp, tạo ra sự cam kết dài hạn.
TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Quan trọng hơn, theo TS. Nguyễn Minh Cương, việc bàn về xây dựng tập đoàn tài chính liệu có phải là bước đi tiếp theo của Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính mà trung tâm tài chính (IFC) có thể trở thành xuất phát điểm.
Vị chuyên gia cho rằng Việt Nam không thiếu vốn (thực tế thời gian qua đã chứng minh), vấn đề là hiệu quả phân bổ. Ông nhắc lại giai đoạn trước, Việt Nam huy động vốn trái phiếu rất tốt nhưng sử dụng chưa hiệu quả. Vì vậy, mục tiêu của IFC không chỉ là huy động vốn.
TS. Nguyễn Tú Anh tỏ ra thận trọng hơn: “Tại sao nhà đầu tư không ở Singapore mà lại sang Việt Nam?” Ông cho rằng Việt Nam chưa thể cạnh tranh trực tiếp với Singapore nếu không phải là một nước thặng dư vốn. Một trong những khả năng, ông Tú Anh đặt giả thuyết, “là thế giới đang hình thành một trật tự đa cực và trung tâm tài chính của Việt Nam có thể tận dụng vị trí để đóng vai trò là 'hub' kết nối giữa các cực”.
Trong khi đó, ông Quản Trọng Thành cho rằng “luật chơi” mới là quan trọng nhất, và lợi thế của Việt Nam nằm ở nền kinh tế trẻ, năng động, đặc biệt là xu hướng tài sản số và công nghệ.
Ông Thành chỉ ra các khung pháp lý mới như Luật Công nghiệp công nghệ số và Nghị quyết 05 đang cho phép thử nghiệm các mô hình mới. Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra một điểm băn khoăn mang tính then chốt: Luật cho phép phát hành stablecoin (đồng tiền ổn định), nhưng Nghị quyết 05 lại chưa cho phép phát hành tài sản số dựa trên đồng tiền pháp định (VND).
Ông cho biết ngay cả Jamie Dimon, CEO của JP Morgan, người từng gọi Bitcoin là “vô lý”, thì nay cũng đã chấp nhận Bitcoin làm tài sản đảm bảo. Điều này cho thấy “tư duy (mindset) của thị trường đã thay đổi rõ rệt”.
“Hiện nay, rất nhiều nhà đầu tư Việt Nam muốn mua tài sản số, họ phải dùng tiền USD để mua các đồng USDT... Nếu ở Việt Nam, có một ngân hàng thương mại nhà nước đứng ra làm đơn vị phát hành đồng tiền ổn định đó thì có thể quản lý và giữ được một phần dòng tiền ngoại tệ”, ông Thành đề xuất.





























