Mua nhầm đồ trộm cắp có bị truy cứu trách nhiệm hình sự?
Bạn Gia Huy (Hải Phòng) hỏi: Hiện nay, nhiều người dân do nhẹ dạ, cả tin không kiểm chứng đầy đủ thông tin về những món đồ mà mình mua lại, nên vô tình mua phải những đồ do phạm tội mà có hay có nguồn gốc bất chính. Vậy xin hỏi, nếu mua phải đồ trộm cắp thì người mua có chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) không? Trường hợp này người dân phải làm sao để bảo vệ bản thân?
- Luật sư Lê Thị Thùy - Đoàn Luật sư TP Hà Nội tư vấn: Căn cứ Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội Chứa chấp hoặc Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, như sau:
Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Phạm tội có tổ chức; có tính chất chuyên nghiệp; tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100 đến dưới 300 triệu đồng; thu lợi bất chính từ 20 đến dưới 100 triệu đồng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 - 07 năm.
Nếu phạm tội mà tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300 triệu đến dưới 01 tỷ đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100 triệu đến dưới 300 triệu đồng thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm.
Khung phạt cao nhất thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm khi tài sản, vật phạm pháp trị giá 01 tỷ đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 300 triệu đồng trở lên.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 05 - 50 triệu đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Bên cạnh đó, theo hướng dẫn tại Điều 2 Thông tư liên tịch 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC thì hành vi tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó. Đặc biệt, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi phạm tội phải biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có nhưng không có hứa hẹn, bàn bạc hoặc thỏa thuận trước với người có tài sản do phạm tội mà có.
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên, trong trường hợp người mua vô tình mua nhầm đồ trộm cắp mà không hề biết tài sản mình mua là do trộm cắp mà có thì trường hợp này chỉ là một giao dịch dân sự thông thường; hành vi của người mua không đủ yếu tố để cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên sẽ không bị truy cứu TNHS.
Trường hợp người mua biết rõ hoặc có cơ sở để biết tài sản đó là do người khác phạm tội mà có (ví dụ: tài sản có dấu hiệu bất thường, giá bán quá rẻ, người bán có biểu hiện nghi vấn, tài sản còn nguyên tem, nhãn, giấy tờ chứng minh quyền sở hữu không hợp lệ…) mà vẫn cố ý mua thì có thể bị truy cứu TNHS về tội Chứa chấp hoặc Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Do vậy, để phòng tránh rủi ro, khi thu mua tài sản cũ, người mua nên yêu cầu người bán xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu (nếu có), ghi nhận thông tin người bán, kiểm tra kỹ nguồn gốc tài sản và cảnh giác với các tài sản có dấu hiệu bất thường.
Trong trường hợp sau khi mua mới phát hiện tài sản mình mua là tài sản do trộm cắp thì người mua không thể tiếp tục sử dụng tài sản và cần khai báo kịp thời cho cơ quan chức năng có thẩm quyền. Người mua có quyền yêu cầu người bán trả lại cho nhau những gì đã nhận. Nếu bên bán không trả lại thì người mua có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.