Mưa lũ lịch sử ở miền Trung 'phơi bày' nhiều bất cập trong quy trình vận hành hồ chứa
Những đợt mưa lũ kỷ lục thời gian qua đã phơi bày hàng loạt điểm yếu trong hệ thống dự báo và vận hành hồ chứa, từ thiếu dữ liệu đến cảnh báo chậm trễ.
Hàng loạt điểm yếu của quy trình vận hành liên hồ chứa
Chiều 21/11 tại Hà Nội, Diễn đàn "Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước" được tổ chức nhằm tạo không gian để các cơ quan quản lý và chuyên gia trao đổi kinh nghiệm, thảo luận giải pháp và định hướng lộ trình chuyển đổi số trong quản lý an toàn đập, hồ chứa trên cả nước.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong – Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) – nhận định những đợt mưa lũ lớn gần đây đã "bộc lộ hàng loạt điểm yếu" của hệ thống dự báo và quy trình vận hành liên hồ chứa. Nhiều lưu vực ghi nhận lượng mưa vượt kỷ lục, trong khi dung tích phòng lũ của các hồ không còn nhiều như trước.
Ông Phong đặt câu hỏi: "Có nên tiếp tục duy trì mực nước dâng bình thường như hiện nay, hay cần hạ thấp trước mùa mưa để tạo thêm dung tích đón lũ?" Theo ông, lựa chọn này không chỉ liên quan đến an toàn của công trình mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn vùng hạ du và nhu cầu tích nước phục vụ sản xuất.

Còn nhiều bất cập trong quy trình vận hành hồ chứa.
Trong bối cảnh thời tiết ngày càng bất định, dự báo mưa lũ vẫn phụ thuộc lớn vào mô hình quốc tế, dẫn đến sai số đáng kể. Ông Phong cho rằng cần phát triển các mô hình dự báo chuyên biệt cho từng hồ, từng lưu vực, phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.
TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, cho rằng nhiều nguyên nhân khiến lũ lụt ở miền Trung trở nên nghiêm trọng.
Lượng mưa những ngày qua vượt kỷ lục hàng chục năm, kéo dài 2-3 ngày khiến hồ chứa và vùng trũng đã bão hòa, mưa xuống bao nhiêu nước đổ về bấy nhiêu. Lũ còn chồng lũ khi các đợt mưa liên tiếp, trong khi quy trình vận hành hồ hiện nay chủ yếu dựa trên mô hình lũ đơn, chưa theo kịp thực tế biến đổi khí hậu.
Hiện quy trình vận hành hồ được thiết kế theo nguyên tắc đầu vụ phải hạ mực nước đón lũ, giữa vụ xả sao cho lưu lượng không lớn hơn nước đến hồ, cuối vụ tích nước lên mực nước dâng bình thường. Nhưng đợt lũ vừa qua xuất hiện cuối mùa, khi hồ đã tích đầy nước nên gần như không còn dung tích đón lũ. Các hồ thủy điện lại do doanh nghiệp đầu tư, ưu tiên sản xuất điện nên thường chần chừ khi được yêu cầu hạ mực nước.
Về vận hành hồ chứa, ông Dũng cho rằng "điều đáng lo là ai cũng đúng", chủ đập khẳng định làm đúng quy trình, Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai cũng ra lệnh đúng quy định. Nhưng địa phương lại thiếu đội ngũ tư vấn, đủ chuyên môn thủy văn, thủy lực để tham mưu chủ tịch tỉnh quyết định xả lũ sớm.
Một khó khăn khác là mâu thuẫn lợi ích. Ông Dũng đặt câu hỏi nếu xả lũ sớm nhưng sau đó không mưa, ai chịu trách nhiệm? Năm 2017, thủy điện Hòa Bình xả lũ sớm khiến hồ cạn, không phát đủ điện và bị phạt nặng vì thiếu công suất.
Ông dẫn ví dụ quy trình cho phép xả 0-5.000 m3/s - mức rất rộng. Buổi sáng chủ hồ có thể chỉ xả vài trăm m3/s, đến chiều lũ đổ về, họ tăng lên 4.000 m3/s khiến người dân không kịp trở tay. "Chủ hồ làm vậy không sai, vì quy trình cho phép. Vấn đề là quy trình đang mang tính hành chính, thiếu linh hoạt", ông Dũng nói.
Nâng cao an toàn hồ chứa trước thời tiết cực đoan
Ở góc độ quản lý dữ liệu, ông Phan Tiến An – Trưởng phòng An toàn đập và hồ chứa nước – cho biết nhiều hồ chứa nhỏ và vừa, đặc biệt là những công trình xây dựng từ vài thập kỷ trước, đang thiếu nghiêm trọng hồ sơ thiết kế, số liệu cập nhật về dung tích, mực nước, tuổi thọ đập. Nhiều địa phương vẫn quản lý thủ công, chưa có phần mềm cơ sở dữ liệu, khiến thông tin vận hành không chính xác, trong khi dung tích hồ đã biến đổi đáng kể sau 30–40 năm khai thác. Công tác cảnh báo lũ tại một số nơi vẫn thực hiện bằng điện thoại hoặc công văn, dẫn đến chậm trễ khi lũ lên nhanh.
Trước những tồn tại nêu trên, các chuyên gia thống nhất rằng chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ là giải pháp cốt lõi để nâng cao năng lực quản lý và vận hành hồ chứa. Trước hết, ngành thủy lợi cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất, chuẩn hóa theo tiêu chuẩn chung và yêu cầu các địa phương bắt buộc kết nối, chia sẻ dữ liệu qua nền tảng API.
TS. Nguyễn Văn Mạnh (Viện Quy hoạch Thủy lợi) đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (big data) dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, tích hợp đồng bộ dữ liệu quan trắc mưa, dòng chảy với mạng lưới khí tượng thủy văn và hệ thống đo mưa tự động, cũng như các nền tảng thời tiết như WeatherPlus, Vrain. Việc sử dụng chung một nguồn dữ liệu thống nhất, theo ông, sẽ giúp giảm thiểu sai số và nâng cao độ tin cậy trong tính toán.
Cùng với đó, ngành thủy lợi được khuyến nghị đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích dữ liệu thời gian thực, mô phỏng dòng chảy, dự báo mưa – lũ và hỗ trợ ra quyết định kịp thời trong vận hành xả nước.
Dù vậy, các chuyên gia đều khẳng định rằng công nghệ chỉ đóng vai trò hỗ trợ; yếu tố then chốt vẫn là con người. TS. Mạnh nhấn mạnh đội ngũ kỹ thuật phải trực 24/7, liên tục cập nhật dữ liệu và hiệu chỉnh mô hình để bảo đảm hệ thống luôn trong trạng thái sẵn sàng.
Kết thúc diễn đàn, đại diện Cục Thủy lợi khẳng định: trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, an toàn đập và an toàn hạ du phải luôn được đặt lên hàng đầu. Việc xây dựng hệ thống vận hành thông minh, cơ sở dữ liệu đầy đủ, dự báo chính xác cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện chính là nền tảng quan trọng giúp giảm thiểu rủi ro và bảo vệ an toàn cho hàng triệu người dân vùng hạ du.
Hôm 19/11, các thủy điện lớn ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đang phải mở nhiều cửa xả. Đặc biệt, thủy điện sông Ba Hạ lúc 18h mở 12 cửa xả với lưu lượng 16.100 m3/s trong khi lượng nước đến hồ là 16.160 m3/s. Thủy điện sông Hinh xả 2.756 m3/s, trong khi lượng nước đến hồ là 2.921 m3/s.






























