Mưa lũ cực đoan dồn dập, chuyên gia cảnh báo 'lỗ hổng' trong vận hành hồ chứa
Thời tiết cực đoan, bão lũ bất thường khiến hệ thống hồ chứa đứng trước nguy cơ quá tải, trong khi cảnh báo và dự báo vẫn lệ thuộc vào mô hình cũ.
Tại diễn đàn “Chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ trong vận hành, bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước” nhằm triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức, các chuyên gia cảnh báo rằng công tác quản lý hồ chứa đang chịu sức ép chưa từng có, khi các đợt mưa lũ cực đoan xuất hiện ngày càng thường xuyên.
Ông Phan Tiến An, Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước (Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi – giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Tuy nhiên, sự bất thường của thời tiết, bão dồn dập, không gian thoát lũ bị thu hẹp khiến việc vận hành hồ chứa ngày càng khó khăn.
Một trong những “điểm mù” lớn là thiếu cơ chế điều phối liên hồ theo lưu vực. Hồ thủy điện và thủy lợi chia sẻ dữ liệu hạn chế; nhiều quy trình vận hành đã lỗi thời nhưng chưa thể cập nhật do thiếu công cụ và dữ liệu thời gian thực.

Hồ chứa đối mặt áp lực vận hành lớn khi mưa lũ cực đoan xuất hiện ngày càng dày đặc. Ảnh: Đức Hoàng.
Ở hạ du, khả năng tiêu thoát nước đang vượt ngưỡng chịu đựng, trong khi hệ thống cảnh báo ở các hồ nhỏ vẫn chủ yếu thủ công. Hạ tầng công nghệ thông tin yếu, nguồn lực đầu tư duy tu mới đáp ứng khoảng 11,8% nhu cầu, chủ yếu dùng để sửa chữa công trình, gần như không có kinh phí cho công nghệ.
TS. Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), chỉ ra rằng cả nước có khoảng 6.800 hồ chứa, nhưng chỉ 300 hồ chiếm tới 80% dung tích điều tiết và chỉ hơn 200 hồ có cửa van chủ động. Điều này khiến áp lực vận hành trong bối cảnh mưa lũ cực đoan 2024-2025 càng lớn.
Chất lượng dự báo hiện vẫn phụ thuộc vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm của chuyên gia, dẫn đến sai số ở một số trận lũ. Nhiều mô hình tính toán đã cũ, chưa bắt kịp tốc độ biến đổi khí hậu.
Chuyển đổi số toàn diện trong quản lý hồ chứa
Để khắc phục bất cập, ông Phan Tiến An cho rằng ngành thủy lợi cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong toàn bộ chuỗi quản lý hồ chứa.
Trước hết, cần hoàn thiện hệ thống thể chế, sửa đổi các quy định pháp lý và ban hành bộ tiêu chuẩn chung cho cơ sở dữ liệu, công tác quan trắc và phần mềm vận hành. Dữ liệu ngành phải được chuẩn hóa và quản lý theo nguyên tắc dùng chung; các địa phương có thể sử dụng phần mềm riêng nhưng bắt buộc phải kết nối thông qua API chuẩn để bảo đảm đồng bộ và liên thông.
Cùng với đó, cần đầu tư hoặc thuê dịch vụ quan trắc hiện đại, xây dựng hệ thống cảnh báo tự động, nâng cao năng lực cán bộ phân tích dữ liệu.
“Khi dữ liệu được chuẩn hóa, hệ thống quan trắc đầy đủ và công nghệ hỗ trợ ra quyết định được áp dụng rộng rãi, việc vận hành hồ chứa sẽ an toàn hơn, kịp thời hơn, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt”, ông An nhấn mạnh.

Hồ chứa xả lũ bị động khiến người dân hạ du nhiều nơi không kịp trở tay. Ảnh minh họa.
TS. Nguyễn Văn Mạnh đề xuất ngành thủy lợi cần kết nối đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia nhằm đảm bảo mọi đơn vị vận hành sử dụng cùng một nguồn dữ liệu đầu vào.
GS.TS. Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam, nêu thực tế, hiện nước ta đã có các cơ quan khí tượng thủy văn theo dõi mưa trên từng lưu vực sông, nhưng năng lực này mới chỉ dừng ở việc “đo được mưa trên trời”. Trong khi đó, quá trình từ khi mưa rơi xuống mặt đất đến lúc hình thành dòng chảy đổ về hồ chứa lại là một bài toán hoàn toàn khác, thuộc phạm vi chuyên môn của ngành thủy lợi.
Ông cho biết trước đây, khí tượng thủy văn và thủy lợi từng nằm chung trong một hệ thống, nhưng sau khi tách ra, việc phối hợp trở nên rời rạc. “Muốn quản lý hiệu quả nguồn nước theo lưu vực, phải thống nhất lại. Từ dự báo mưa đến tính toán dòng chảy đều phải nằm trong một chuỗi quản lý”, GS. Dũng nhấn mạnh.




























