'Con giai phố cổ', 'Đàn bà uống rượu' và món văn chương thời thượng
Tản văn ngắn gọn, dễ đọc bởi nó chỉ là lát cắt của ký ức và kỷ niệm. Dù chỉ là những câu chuyện nhỏ, vẫn mang phong vị riêng của vùng miền, văn phong đặc trưng của tác giả.

Tập tản văn Giọng của phố của nhà văn Nguyễn Việt Hà. Ảnh: NXB Trẻ.
Nói thật là trước đây tôi ít đọc tản văn vì có lúc cho rằng nó là thể loại "nhẹ ký", tôi thích đọc tiểu thuyết và truyện ngắn hơn. Nhưng gần đây đọc một số quyển tản văn, tôi đã có những thay đổi nhất định. Tôi thấy tản văn có những ưu thế nhất định trong một thời thế ưa sự nhẹ nhàng và trong một xã hội luôn trong tình trạng bận rộn.
Tập tản văn gây ấn tượng đầu tiên với tôi là Sống vốn đơn thuần của Phong Tử Khải, một tác giả Trung Quốc nổi tiếng. Khác với những kiểu tản văn ta vẫn thấy, tản văn của Phong Tử Khải thực chất là những câu chuyện nhỏ về thời ấu thơ, thời quá khứ của chính tác giả được viết dung dị ấm áp. Đọc một bài tản văn ngắn mà như thấy cả đời người hoặc bỗng phát hiện ra những giá trị nhân sinh mà ta rất dễ lãng qua.
Phong Tử Khải nói được những điều sâu sắc giản dị mà đối với người khác, có khi phải dùng cả một quyển tiểu thuyết, một xã thuyết, hay triết lý phức tạp mới chuyển tải nổi. Nhà văn kiệm lời, tiết chế cảm xúc nhưng tác phẩm vẫn có sức nặng và dư âm.
Tôi chọn cuốn tản văn Con giai phố cổ của Nguyễn Việt Hà để đọc và ngỡ ngàng với phong cách của anh. Tôi đã biết sự giễu nhại, cười cợt, châm biếm của Nguyễn Việt Hà từ Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của người... nhưng đến thể loại tản văn thì Nguyễn Việt Hà đã có một bước khác rất đáng kể. Ở tản văn, Nguyễn Việt Hà “nhành nhỡ” hơn cả tiểu thuyết.
Anh đã phóng đại rất nhiều, cười cợt hả hê, châm biếm, tô vẽ quá mức những đối tượng anh miêu tả hay đề cập. Anh làm cho đời sống thị dân kệch cỡm, quá thể, quá đáng đi một cách cố ý. Anh chọc cho người ta cười, anh nhổ cho người ta ghê nhưng dù thế nào, tản văn của Nguyễn Việt Hà không cho cảm giác đóng kịch dù anh đang hoạt diễn trên sân khấu cuộc đời. Tản văn Nguyễn Việt Hà luôn có một câu chuyện để kể và nhiều bạn đọc bình dân phục lăn sự thông hiểu đông tây kim cổ của anh, một người rất thích trích dẫn những giai thoại, triết lý Đông, Tây…
Cuốn tản văn thứ ba tôi đọc là Hà Nội bảo thế là thường của Nguyễn Trương Quý. Tôi biết Nguyễn Trương Quý viết tản văn rất nhiều, nhưng đến quyển này tôi mới đọc anh vì nghĩ người viết đã vào đúng độ chín. Quả thật tôi đã không nhầm, tản văn của Nguyễn Trương Quý đủ một độ sâu sắc của một người đọc nhiều và hay quan sát. Cái đáng kể nữa là Nguyễn Trương Quý từ những hiện tượng đơn thuần, nhỏ nhặt, rút ra những nhận xét hoặc kết luận rất thâm thúy, hóm hỉnh. Nó làm cho những tản văn của anh nặng hơn, có dư âm và gợi những chiều suy tưởng.
Một cuốn tản văn tôi đã đọc ở giai đoạn trước do yêu cầu công việc và cũng rất thích. Đó là cuốn Fừn nèn - củi Tết của Y Phương. Y Phương khác cả ba người kể trên vì nhà văn rất dụng công vào ngôn ngữ. Từ ngữ trong tản văn của Y Phương rất đẹp, chau chuốt, có nhiều bài lung linh, gợi tả như một bức tranh toàn mỹ. Người viết rất giỏi so sánh và liên tưởng, hiếm người nào có những so sánh sinh động và kỳ công như Y Phương.
Nhà văn chủ yếu viết về phong tục, cảnh sắc của quê hương và dân tộc mình, những người Tày ở vùng Cao Bằng, những luyến tiếc về những đặc trưng văn hóa đang dần mất dần đi. Sự tinh luyện về ngôn ngữ của Y Phương khiến những điều giản dị trở lên lung linh, tuyệt đẹp.
Có lẽ bốn cuốn tản văn tôi kể trên cũng đặc trưng cho thể loại tản văn đang thời thượng hiện nay. Người ta thích đọc tản văn vì nó nhẹ nhàng, giản dị. Tờ báo nào hầu như cũng có một góc nhỏ dành cho nó. Một quyển tản văn có thể đọc nhanh và không khiến người ta đau đầu, nặng nhọc. Nó là một món hợp thời và vừa khẩu vị nhiều người.