Mỗi dòng sông cần một 'bản đồ' hồi sinh
Ô nhiễm sông hồ đã và đang trở thành một trong những thách thức môi trường lớn nhất tại nước ta, tác động trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng, đời sống dân cư ven sông và nền kinh tế. Các chuyên gia khẳng định, muốn 'hồi sinh' những dòng sông chết, cần sớm xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng nước cho từng lưu vực, dựa trên khả năng chịu tải, gắn với giám sát chặt chẽ và sự tham gia của toàn xã hội.
Dòng chảy ô nhiễm và những hệ lụy nhức nhối
Từ nhiều năm qua, không ít con sông vốn là nguồn sống của hàng triệu người dân đã trở thành “dòng sông chết”. Nước thải công nghiệp, sinh hoạt chưa xử lý; hóa chất độc hại, phân bón và thuốc trừ sâu từ nông nghiệp đã khiến sông Nhuệ, sông Đáy, Ngũ Huyện Khê hay hệ thống Bắc Hưng Hải ô nhiễm trầm trọng. Người dân sống ven sông thường xuyên đối mặt với mùi hôi, nguồn nước đen kịt, kéo theo nhiều nguy cơ về dịch bệnh.

Dọc hai bên bờ sông Nhuệ đoạn qua phường Phú Diễn, Hà Nội, nhiều chỗ là nơi tập kết rác thải sinh hoạt. Ảnh: Thanh Hiếu
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016 - 2020 cho thấy, chất lượng nước trên các lưu vực sông lớn nhìn chung ở mức “trung bình” đến “tốt”. Tuy nhiên, nhiều đoạn sông vẫn ở mức “kém” và “xấu”, điển hình là sông Cầu trước khi vào thành phố Thái Nguyên, sông Nhuệ chảy qua Hà Nội hay sông Hương đoạn qua chợ Đông Ba.
Đáng lo ngại hơn, theo Ngân hàng Thế giới, ô nhiễm nước có thể khiến Việt Nam thiệt hại tới 3,5% GDP mỗi năm từ nay đến năm 2035. Tổn thất này từ chi phí y tế gia tăng do các bệnh liên quan tới nguồn nước, năng suất lao động sụt giảm, cùng tổn thất trong du lịch và nông nghiệp. Việt Nam còn đối mặt với thách thức đặc thù: là quốc gia hạ lưu của nhiều hệ thống sông quốc tế, trong đó có sông Hồng và sông Cửu Long, nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các hoạt động thượng nguồn.
Thực trạng này cho thấy, quản lý và bảo vệ nguồn nước không chỉ là yêu cầu cấp bách về môi trường, mà còn là điều kiện sống còn cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Từ thí điểm đến giải pháp tổng thể
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định rõ: Cứ 5 năm, các địa phương và bộ, ngành liên quan phải xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt. Trong đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chịu trách nhiệm với sông liên tỉnh, còn UBND các tỉnh, thành phố quản lý sông hồ nội tỉnh. Để thực hiện, Bộ đã ban hành quy trình kỹ thuật gồm 8 bước, từ đánh giá hiện trạng, xác định tải lượng, lập kế hoạch đến giám sát và báo cáo.
Trước khi có khung hướng dẫn này, Tổng cục Môi trường (nay là Cục Môi trường) đã thí điểm xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng nước cho lưu vực sông Cầu (2021 - 2023). Kết quả cho thấy, dù, năng lực cán bộ môi trường ở một số địa phương còn hạn chế, chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe và thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các bên liên quan.
Trong khuôn khổ “Dự án lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh” của Cục Môi trường, các chuyên gia đã đánh giá thí điểm sức chịu tải của sông Phan (Phú Thọ) và xây dựng dự thảo kế hoạch quản lý chất lượng nước.
Thí điểm này giúp rút ra nhiều bài học thực tiễn, từ việc xác định chất ô nhiễm chủ yếu đến phân loại nguồn thải. TS. Trịnh Thành, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường (Đại học Bách khoa Hà Nội), nhấn mạnh: “Các văn bản hướng dẫn cần được rà soát, bổ sung để giúp địa phương đánh giá đúng sức chịu tải thủy vực và phân bổ nguồn thải hợp lý, từ đó đưa ra biện pháp kiểm soát phù hợp.”
Ở tầm quốc tế, nhiều quốc gia đã thành công nhờ tiếp cận quản lý theo tổng tải lượng ô nhiễm, giao quyền cho chính quyền địa phương và gắn với cơ chế giám sát tiến độ. Mỹ và Nhật Bản mất tới 40 năm để cải thiện chất lượng nước; Hàn Quốc cũng cần ít nhất 25 năm. Kinh nghiệm đó cho thấy, quản lý chất lượng nước là một quá trình dài hạn, đòi hỏi sự kiên định và chiến lược bền vững.

Các chuyên gia cho rằng, cần sớm nâng cao năng lực đánh giá sức chịu tải môi trường của sông hồ ở các địa phương. Ảnh: laodong.com
Hướng tới dòng chảy xanh, bền vững
Trong tương lai, các chuyên gia khuyến nghị, mỗi tỉnh, thành phố cần xây dựng kế hoạch quản lý chất lượng sông hồ làm căn cứ cho việc cấp phép xả thải, bảo đảm không vượt quá khả năng chịu tải.
Ở cấp liên vùng, cần áp dụng kiểm soát tổng tải lượng đối với những lưu vực lớn như Cầu, Nhuệ - Đáy, Hồng - Thái Bình hay Sài Gòn - Đồng Nai. Việc này nên được triển khai theo giai đoạn để dễ đánh giá hiệu quả, đồng thời điều chỉnh chính sách phù hợp.
Một yếu tố quan trọng khác là hoàn thiện hệ thống quan trắc và cơ chế phối hợp. Khi dữ liệu được cập nhật kịp thời, minh bạch, việc giám sát và ra quyết định sẽ chính xác và hiệu quả hơn. Song song, cần thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp. Khi người dân ven sông, các tổ chức xã hội cùng tham gia giám sát và bảo vệ, chất lượng nước sẽ được kiểm soát thực chất, tránh tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”.
Không kém phần quan trọng là chính sách đầu tư. Việt Nam cần bố trí nguồn lực dài hạn để nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường hạ tầng xử lý nước thải và áp dụng công nghệ hiện đại. Đây là điều kiện tiên quyết để quản lý sông hồ hiệu quả, đồng thời tạo động lực phát triển công nghiệp xanh và du lịch sinh thái.
Ô nhiễm sông hồ là bài toán phức tạp, không thể giải quyết trong ngày một ngày hai. Nhưng với chiến lược đúng đắn, sự phối hợp liên ngành và đồng hành của cộng đồng, những dòng sông chết có thể được hồi sinh, trả lại dòng chảy xanh cho hôm nay và thế hệ mai sau.