'Mở khóa' thể chế để kích hoạt động lực tăng trưởng mới
Theo TS. Nguyễn Quốc Việt - Chuyên gia chính sách công, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, để các động lực tăng trưởng mới phát huy hiệu quả, điều tiên quyết là phải 'mở khóa' thể chế, tạo không gian cho đổi mới và phát triển bền vững.
PV: Ông đánh giá thế nào về cách tiếp cận đổi mới động lực tăng trưởng được nêu trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Tư duy về chuyển dịch mô hình tăng trưởng cũ sang một mô hình tăng trưởng mới bền vững đã được thể hiện trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây, nhất là trong 2 kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII và XIII. Đi kèm với đó, Việt Nam cũng đã định hình được 3 đột phá chiến lược và tái cơ cấu, tái cấu trúc nền kinh tế để có thể chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng dựa trên chiều sâu hơn là dựa trên chiều rộng.

TS. Nguyễn Quốc Việt
Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV lần này thể hiện rõ hơn tầm nhìn mới về động lực tăng trưởng, với mấy điểm nhấn đáng chú ý.
Điểm nhấn thứ nhất, mô hình tăng trưởng mới hướng đến “nhanh và hiệu quả”, trong đó “nhanh” thể hiện ở các mục tiêu định lượng gắn với mốc 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước; còn “hiệu quả” thể hiện ở việc nâng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) lên ít nhất 60% trong chất lượng tăng trưởng.
Điểm nhấn thứ hai, kết hợp với nhanh và hiệu quả là tính bền vững và bao trùm. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đặt mục tiêu môi trường ngang hàng với kinh tế và tiến bộ xã hội, đồng thời xác định kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là động lực mới của phát triển. Đây là bước tiến quan trọng trong tư duy phát triển bền vững, cân bằng giữa tăng trưởng, công bằng và bảo vệ môi trường.
Để thực hiện các mục tiêu trên, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV xác định 3 động lực đổi mới mang tính đột phá.
Một là, kinh tế tư nhân được nâng từ vị thế “động lực quan trọng” lên “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế. Sau đại dịch Covid-19, khu vực này đóng góp lớn nhất vào GDP và được kỳ vọng đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường. Nhằm phát huy vai trò này, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã đề ra nhiều giải pháp và mục tiêu cụ thể, mang tính kỳ vọng cao, giúp khu vực tư nhân vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vị thế vừa là động lực, vừa là nền tảng cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tự cường.
Hai là, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định là động lực chính, mang tính đột phá, là nền tảng để đạt tăng trưởng nhanh và hiệu quả.
Ba là, kết hợp các động lực tăng trưởng với vai trò của Nhà nước, cả góc độ quản lý lẫn góc độ chính sách. Thay vì chỉ thực hiện chức năng quản lý, vai trò của Nhà nước được nhấn mạnh là chủ thể kiến tạo, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển, thông qua việc xây dựng nền hành chính công vụ và thể chế liêm chính, hiện đại, được vận hành trên nền tảng chuyển đổi số.
Có thể thấy, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV thể hiện rõ sự thay đổi về tư duy tăng trưởng, hướng tới mô hình hiệu quả - bao trùm - bền vững, lấy khu vực tư nhân, khoa học công nghệ và Nhà nước kiến tạo làm 3 trụ cột phát triển trong giai đoạn tới.

Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển - một trong những động lực tăng trưởng mới. Ảnh: Đức Thanh
PV: Theo ông, đâu là điểm nghẽn lớn nhất đang kìm hãm các động lực tăng trưởng mới của Việt Nam?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra, thể chế là "điểm nghẽn của điểm nghẽn".
Theo tôi, có 2 vấn đề cốt lõi trong thể chế hiện nay.
Thứ nhất, tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong các quy định pháp luật và chính sách thực thi, không chỉ ở các văn bản luật hay nghị định, mà còn ẩn trong quy hoạch, chương trình, đề án triển khai. Những bó buộc này không chỉ làm khó doanh nghiệp và người dân, mà còn “trói tay” cả bộ máy công quyền, khiến cán bộ e ngại, sợ sai. Một phần nguyên nhân bắt nguồn từ tư duy “không quản được thì cấm”, nên nhiều cơ quan vẫn có xu hướng siết chặt quy định để hạn chế rủi ro.
Thứ hai, thể chế còn thiếu minh bạch, thiếu cơ chế giải trình và liêm chính, dẫn đến nguy cơ trục lợi chính sách, lợi ích nhóm và giảm niềm tin vào hiệu quả điều hành. Khi bộ máy chưa hiện đại, chưa dựa trên trách nhiệm giải trình, việc ban hành và thực thi chính sách dễ mang tính hình thức, chú trọng “đúng quy trình” hơn là hiệu quả thực chất. Hệ quả là hiệu quả thực thi chính sách thấp, làm giảm năng suất và hiệu quả sử dụng vốn trong toàn nền kinh tế.
Đây chính là hai điểm nghẽn cốt lõi cần được tháo gỡ nếu Việt Nam muốn hiện thực hóa các đột phá chiến lược và động lực tăng trưởng mới trong giai đoạn tới.
PV: Ông có khuyến nghị cụ thể gì để đổi mới mô hình tăng trưởng thực chất và bền vững hơn trong giai đoạn 2026 - 2030?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Theo tôi, để tạo ra đột phá trong mô hình tăng trưởng, điều tiên quyết là phải “cởi trói”, “mở khóa” thể chế. Khi giải quyết triệt để tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn trong pháp luật, quy hoạch và chính sách, các chủ trương mới có thể được thực thi thực chất và hiệu quả, thay vì chỉ mang tính hình thức “đúng quy trình, đúng pháp luật”, nhưng không tạo giá trị lan tỏa hay niềm tin cho người dân và doanh nghiệp.
Cần mạnh dạn triển khai các mô hình thí điểm có kiểm soát
Theo TS. Nguyễn Quốc Việt, cần mạnh dạn triển khai các mô hình sandbox (thí điểm có kiểm soát) như đã nêu trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV cho những lĩnh vực đổi mới như công nghệ tài chính (fintech), tài sản ảo, năng lượng tái tạo, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh… Nếu e dè, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội phát triển, trong khi thực tế các mô hình mới vẫn tồn tại trong "vùng xám", tiềm ẩn rủi ro cho kinh tế - xã hội.
"Cải cách thể chế không chỉ nhằm đảm bảo an toàn, mà phải hướng tới tạo động lực phát triển nhanh và bền vững. Thể chế cần được thiết kế như một "sợi dây neo", vừa giúp giữ thăng bằng, vừa tạo đà để con thuyền kinh tế bứt phá" - TS. Nguyễn Quốc Việt nhấn mạnh.
Muốn vậy, trước hết, hệ thống chính sách và pháp luật cần tinh gọn, bãi bỏ bớt, giảm bớt. Mỗi lĩnh vực chỉ nên được quy định trong một đạo luật thống nhất, có tính ổn định, dễ dự báo, dễ tuân thủ và thực thi. Song song với việc tháo gỡ rào cản cũ, cần xây dựng hành lang thể chế mới để thúc đẩy cạnh tranh và khuyến khích các mô hình kinh tế mới.
Để thể chế thực sự phát huy hiệu quả, Nhà nước cần chuyển sang mô hình “kiến tạo phát triển”, giảm đến mức thấp nhất sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào kinh tế thị trường, tạo điều kiện để xã hội và doanh nghiệp tự vận hành, sáng tạo.
Bên cạnh đó, muốn khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực tăng trưởng thực sự, cần có đầu tư tương xứng, nhất là cho phát triển nhân lực. Trong đó, giáo dục đại học phải là trọng tâm. Nhà nước cần tăng đầu tư công cho đại học, thay vì chỉ dựa vào xã hội hóa và tự chủ tài chính. Việc phải tự cân đối thu chi khiến các trường phụ thuộc vào nguồn tăng thu học phí, dễ dẫn tới chạy theo thị hiếu ngắn hạn, tăng học phí, làm thu hẹp cơ hội học tập của người tài thiếu điều kiện, khiến nguồn nhân lực chất lượng cao không được đào tạo đúng hướng. Vì vậy, đầu tư của Nhà nước vào giáo dục đại học cần mang tính chiến lược, tạo xung lực đổi mới cho nền kinh tế tri thức.
Đồng thời, cần kết hợp các chính sách trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp thực sự hiệu quả, tạo động lực, nhất là chính sách về tài khóa hoặc tiền tệ vẫn phải dựa trên yếu tố tăng tổng cung của nền kinh tế, thông qua đầu tư vào hạ tầng, công nghệ và con người. Chính sách hỗ trợ phải hướng tới nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh, tránh dàn trải hoặc kích thích đầu cơ, tạo bong bóng tài sản và gây áp lực lạm phát.
Đó là những điểm tôi cho rằng cần phải hết sức lưu ý khi triển khai các giải pháp cụ thể thực hiện các nghị quyết nhằm tạo ra đột phá mô hình tăng trưởng trong giai đoạn 2026 - 2030.
PV: Xin cảm ơn ông!































