Metro, cao tốc, năng lượng tái tạo: Thị trường khổng lồ chờ doanh nghiệp nội

Với quy mô đầu tư khủng, cộng hưởng cùng nhu cầu đô thị hóa, logistics, năng lượng tái tạo và hạ tầng số, có thể nói doanh nghiệp hạ tầng Việt Nam đang đứng trước cơ hội chưa từng có để vươn lên làm chủ các dự án quy mô lớn, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị xây dựng và vận hành các công trình hiện đại.

Sáng 19/8, cả nước đồng loạt tổ chức lễ khởi công, khánh thành 250 công trình, dự án hạ tầng tại 80 điểm cầu, chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9. Với tổng vốn đầu tư khoảng 1.280 nghìn tỷ đồng, trong đó có 8 dự án quan trọng quốc gia, hàng chục dự án nhóm A, hàng trăm dự án nhóm B, C trải đều trên nhiều lĩnh vực, đây là đợt khởi động công trình quy mô lớn hiếm có.

“Thời cơ vàng” từ làn sóng đầu tư công

Sự kiện khởi công và khánh thành đồng loạt hàng trăm công trình là minh chứng cho quyết tâm đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng, một động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Sự kiện khởi công và khánh thành đồng loạt hàng trăm công trình là minh chứng cho quyết tâm đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng, một động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Trong số 250 dự án, hạ tầng giao thông chiếm 59 dự án, công trình công nghiệp có 57; công trình dân dụng - đô thị có 44, hạ tầng kỹ thuật có 36, nhà ở xã hội có 22, cùng nhiều dự án khác về y tế, giáo dục, nông nghiệp, văn hóa, quốc phòng.

Đáng chú ý, nguồn vốn đầu tư 63% đến từ khu vực ngoài nhà nước, bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân trong nước và vốn FDI. Điều này cho thấy vai trò ngày càng lớn của khu vực tư nhân trong phát triển hạ tầng quốc gia.

Việt Nam đang trong giai đoạn bùng nổ đầu tư hạ tầng, từ giao thông tới năng lượng, đặc biệt tại các đô thị lớn.

Đơn cử, với hạ tầng đường sắt đô thị, Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ có 96,8 km đường sắt đô thị mới, tiến tới 413 km vào năm 2050, với tổng vốn hơn 14,6 tỷ USD. TP HCM dự kiến hoàn thiện 7 tuyến metro dài 355 km trước năm 2035 và mở rộng lên 510 km trong giai đoạn sau. Để thúc đẩy, Chính phủ đã ban hành cơ chế đặc thù, bổ sung ngân sách trung ương hàng năm 215.000 tỷ đồng cho Hà Nội và 209.000 tỷ đồng cho TP HCM phục vụ đầu tư hạ tầng đường sắt đô thị. Những con số này khẳng định cơ hội vàng cho doanh nghiệp hạ tầng Việt Nam.

Theo tính toán của Tập đoàn Đèo Cả, hệ thống metro tại Hà Nội và TP HCM sẽ cần khoảng 110 km hầm, trị giá hơn 412.000 tỷ đồng, đòi hỏi gần 2.000 thiết bị và hơn 6.600 lao động kỹ thuật. Đây là thị trường khổng lồ, vừa tạo áp lực, vừa thúc đẩy doanh nghiệp Việt nâng cao trình độ, tiếp cận công nghệ quốc tế, tiến tới làm chủ công nghệ trong nước.

Trước đây, các dự án metro thường do doanh nghiệp nước ngoài làm tổng thầu chính, nhà thầu Việt chỉ đảm nhận phần việc phụ như thi công cầu cạn, nhà ga, hầm. Nhưng gần đây, nhiều liên danh trong nước đã mạnh dạn đề xuất tham gia với vai trò tổng thầu EPC (thiết kế - cung cấp thiết bị - thi công).

Đơn cử, liên danh Đại Dũng - Tổng công ty Xây dựng số 1 - Hòa Phát đưa ra phương án nhận thầu metro số 2, tuyến Thủ Thiêm - Long Thành và tuyến Bình Dương - Suối Tiên… Các tập đoàn trong nước đều khẳng định năng lực thi công hạng mục kỹ thuật phức tạp.

Đây là tín hiệu tích cực, cho thấy hạ tầng lớn không còn là “sân chơi riêng” của “ông lớn” ngoại hay khu vực nhà nước mà đang trở thành mảnh đất để khối tư nhân trong nước khẳng định vị thế.

“Điểm nghẽn” nào còn kìm chân doanh nghiệp?

Tuy nhiên, cơ hội lớn luôn đi kèm thách thức không nhỏ. Thực tế cho thấy, để doanh nghiệp Việt thực sự vươn lên làm chủ các dự án hạ tầng lớn, còn nhiều rào cản phải vượt qua như nguồn lực, chính sách.

Trong đó, vốn và cơ chế huy động vốn là rào cản lớn do các dự án hạ tầng có tổng mức đầu tư hàng tỷ USD, đòi hỏi nguồn lực tài chính khổng lồ.

Tại hội thảo diễn ra cuối tuần qua, ông Nguyễn Phạm Thanh Huy, đại diện Sở Tài chính TP HCM khẳng định, thu hút nguồn lực tư nhân đầu tư hạ tầng là xu hướng tất yếu, nhưng cần “vốn mồi” từ Ngân sách Nhà nước để kích hoạt.

“Hiện đã có khung pháp lý về đầu tư công và đối tác công - tư (PPP), trong đó phổ biến nhất với khối tư nhân là BOT, song vẫn tồn tại nhiều rủi ro. Hình thức BT và mô hình phát triển đô thị định hướng giao thông (TOD) cũng đang được quan tâm. Tuy nhiên thực tế quá trình thẩm định PPP còn kéo dài, từ khi sáp nhập đến nay chưa có dự án nào được phê duyệt”, ông Huy nêu thực trạng.

Bên cạnh đó, ông Huy nhận định giải phóng mặt bằng vẫn là điểm nghẽn lớn nhất. Tiến độ dự án thường bị kéo dài, tăng chi phí, rủi ro cho doanh nghiệp ở khâu này.

Còn ông Nguyễn Xuân Thành, giảng viên về Chính sách công, Đại học Fulbright, cho rằng điểm yếu nhất của dự án hạ tầng Việt Nam không nằm ở thể chế. Doanh nghiệp tư nhân hiện chủ yếu chỉ được tham gia với tư cách nhà thầu hay nhà đầu tư; chưa có chính sách pháp lý liên quan để doanh nghiệp quản lý, điều hành toàn bộ dự án.

Để tháo gỡ, ông Thành kiến nghị trao quyền quản lý dự án cho doanh nghiệp tư nhân theo cơ chế Nhà nước thuê quản lý, sau khi hoàn thành doanh nghiệp sẽ bàn giao lại.

Đồng quan điểm, ông Trịnh Tiến Dũng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Đại Dũng cho rằng các doanh nghiệp tư nhân Việt đủ năng lực đảm nhận hạ tầng lớn, nhưng cần được giao quyền tự chủ nhiều hơn: "Cần mạnh dạn giao cho nhà thầu trong nước quyền tự chủ, nội địa hóa thiết bị, đầu máy toa xe để không phát sinh thêm chi phí thuê thiết bị. Quan trọng là Việt Nam phải làm chủ công nghệ, giúp vận hành lâu dài, tiết kiệm cho xã hội".

Ông đề xuất có cơ chế ưu tiên chỉ định thầu cho doanh nghiệp trong nước, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư qua nhiều hình thức, bao gồm phát hành trái phiếu.

“Thực tế cho thấy nguồn vốn xã hội rất dồi dào, song cơ chế vẫn chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, việc giao thầu cần có sự cam kết, nhất quán giữa các nhiệm vụ; tránh thay đổi chính sách gây rủi ro, cản trở sự phát triển của doanh nghiệp”, đại diện doanh nghiệp lưu ý.

Có thể thấy, để biến cơ hội thành hiện thực, cần sớm tháo gỡ nhiều rào cản. Trong khi Nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, sự chủ động, dám nghĩ dám làm của doanh nghiệp mới là yếu tố quyết định.

Nếu tận dụng được thời cơ vàng, doanh nghiệp hạ tầng Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vị thế ngay trên sân nhà, tiến tới cạnh tranh ở thị trường khu vực và quốc tế.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện, Trường ĐH Kinh tế - Luật , ĐHQG TP HCM

Dù theo hình thức đầu tư nào, quan hệ đối tác với khu vực tư nhân cần rõ ràng về pháp lý, tài sản, quyền và nghĩa vụ; tránh tình trạng danh nghĩa là Nhà nước hợp tác với doanh nghiệp nhưng cơ chế lại mập mờ, tạo ra "giao diện" đầy rủi ro cho phía tư nhân.

Ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam

Nếu doanh nghiệp Việt chỉ đóng vai trò nhà thầu phụ thì sẽ phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài, khó tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Khi doanh nghiệp trong nước giữ vai trò tổng thầu EPC, họ có thể liên kết với đối tác nước ngoài để tiếp nhận chuyển giao công nghệ, thiết bị và quy trình vận hành metro - từ đó từng bước làm chủ công nghệ.

Ông Nguyễn Tâm Tiến, Tổng giám đốc, Tập đoàn Trung Nam

Đối với doanh nghiệp tư nhân, công nghệ không có thì có thể đi mua. Khó khăn nhất là việc tiếp cận các nguồn vốn vay và lãi suất lại cao. Do đó Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ tạo thêm "đòn bẩy" cho doanh nghiệp tham gia đầu tư các dự án lớn góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Đỗ Kiều

Nguồn Vnbusiness: https://vnbusiness.vn//viet-nam/metro-cao-toc-nang-luong-tai-tao-thi-truong-khong-lo-cho-doanh-nghiep-noi-1108945.html
Zalo