Luật Sở hữu trí tuệ tạo tấm 'lá chắn' văn hóa số, bảo vệ người sáng tạo
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ mười, sáng 5-11, các đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi); dự án Luật Giám định tư pháp (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.

Các đại biểu Quốc hội thảo luận tại Tổ Hà Nội sáng 5-11. Ảnh: Quang Vinh
Trong quá trình thảo luận, nội dung được nhiều đại biểu quan tâm là dự án sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn Hà Nội) đánh giá cao tinh thần đổi mới, tính kịp thời và tầm nhìn dài hạn của dự thảo Luật. Đây là bước chuyển quan trọng, khi đã thay đổi tư duy tiếp cận, từ “bảo hộ quyền” sang “khai thác giá trị”, coi tài sản trí tuệ không chỉ là công cụ pháp lý, mà là một nguồn lực kinh tế, một động lực cho đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Dự thảo có nhiều điểm mới tích cực, như: Mở rộng phạm vi bảo hộ sang tài sản phi vật lý, bổ sung cơ chế tài chính hóa quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường chuyển đổi số trong quản lý, và bước đầu đặt nền tảng pháp lý cho việc khai thác dữ liệu, trí tuệ nhân tạo.

Đại biểu Nguyễn Thị Lan phát biểu. Ảnh: Hồ Như Ý
Về nội dung cụ thể, đại biểu Nguyễn Thị Lan cho rằng, nội dung tài chính hóa quyền sở hữu trí tuệ là điểm đột phá quan trọng trong dự thảo khi cho phép quyền sở hữu trí tuệ được định giá, góp vốn, huy động vốn hoặc thế chấp. Đây là bước đi rất tiến bộ, bởi trong nền kinh tế tri thức, giá trị của tài sản trí tuệ thường chiếm hơn 70% tổng giá trị doanh nghiệp. Thương hiệu, sáng chế, bí quyết kỹ thuật là “vàng mềm” của nền kinh tế. Dự thảo cũng đã đề cập việc Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trị quyền sở hữu trí tuệ, đây là hướng đi cần thiết để hình thành thị trường tài sản trí tuệ minh bạch.
Để quy định đi vào thực tiễn, đại biểu kiến nghị cần phân định rõ trường hợp được tự định giá và trường hợp bắt buộc phải định giá độc lập. Ví dụ, nếu sáng chế hoặc nhãn hiệu được tạo ra từ nguồn kinh phí cá nhân, chủ sở hữu có thể tự định giá; nhưng nếu sử dụng ngân sách nhà nước hoặc kinh phí từ chương trình khoa học công nghệ quốc gia thì cần có tổ chức định giá độc lập và cơ chế kiểm định của cơ quan có thẩm quyền.
Đồng thời, theo đại biểu, cần sớm ban hành tiêu chí, quy trình và cơ chế giám sát việc định giá, tránh tình trạng “thổi giá” hoặc “ảo hóa” giá trị tài sản trí tuệ.

Đại biểu Tạ Đình Thi phát biểu. Ảnh: Hồ Như Ý
Quan tâm đến việc bảo hộ quyền sở hữu đối với các tri thức bản địa, đại biểu Tạ Đình Thi (Đoàn Hà Nội) cho rằng, trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế rất sâu rộng và chủ trương phát triển mạnh kinh tế tư nhân, chính sách của Nhà nước cần phải bảo hộ đối với các tri thức bản địa được hình thành qua hằng nghìn năm.
Lấy ví dụ về vấn đề giống cây trồng, đại biểu cho rằng, nhiều khi các giống cây được hình thành bởi cả một cộng đồng dân cư tạo dựng; nay một doanh nghiệp tư nhân đến khai thác xong đăng ký quyền sở hữu, liệu cộng đồng đó có được chia sẻ lợi ích thỏa đáng không?
Đại biểu Tạ Đình Thi cho rằng, cần phải xem xét kỹ mối quan hệ giữa tri thức bản địa với việc tư nhân hóa các quyền đó. Trong nhóm chính sách của Nhà nước, cần có nghiên cứu để thể hiện rõ hơn, kể cả trong lĩnh vực văn hóa. Vấn đề này càng ngày càng trở nên quan trọng để vừa bảo đảm phát triển và bảo tồn các tri thức bản địa, đồng thời đảm bảo quyền lợi cho các cộng đồng đã sở hữu những tri thức đó qua nhiều thế hệ.
Trong khi đó, đại biểu Bùi Hoài Sơn (Đoàn Hà Nội) nêu, thực tế văn hóa không chỉ tồn tại trên sân khấu hay trang sách, mà đang lan tỏa mạnh mẽ trên nền tảng số, được số hóa bằng dữ liệu, thậm chí được tái tạo bởi trí tuệ nhân tạo. Mỗi thông tin, mỗi giai điệu, mỗi hình ảnh giờ đây có thể đi khắp thế giới chỉ trong vài giây, và cũng có thể bị đánh cắp, bóp méo hoặc khai thác thương mại trái phép trong vài giây.
Đại biểu khẳng định, dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ lần này không chỉ là sửa kỹ thuật pháp lý, mà là tạo tấm “lá chắn” văn hóa số, bảo vệ người sáng tạo, và khẳng định chủ quyền văn hóa Việt Nam trong không gian mạng toàn cầu.
Trong dự thảo, việc sửa khoản 13 Điều 4 để mở rộng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp sang “sản phẩm phi vật lý” là đúng hướng. Tuy nhiên, trong môi trường số, sản phẩm phi vật lý không chỉ là mô hình, thiết kế 3D mà còn bao gồm hình ảnh số, giọng nói số, phong cách biểu diễn, avatar và nhân dạng số của nghệ sĩ. Đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị bổ sung giải thích vào khoản này, nhằm bảo đảm không để giọng nói, hình ảnh nghệ sĩ, hay phong cách sáng tạo bị AI sao chép, deepfake và sử dụng mà không xin phép.
Tại khoản 2 Điều 7, dự thảo quy định việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được cản trở sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca. Quy định này rất quan trọng, nên cần bổ sung: “bao gồm cả môi trường trực tuyến và nền tảng số”, đồng thời làm rõ trách nhiệm không chỉ của cá nhân, tổ chức mà của nền tảng cung cấp dịch vụ số...

































