Luật hóa báo chí trên không gian mạng: Cơ hội và thách thức
Báo chí Việt Nam cũng như thế giới đã hiện diện trên không gian mạng nói chung và mạng xã hội nói riêng từ rất sớm nhưng phải đối mặt thực tế là khó cạnh tranh với người có sức ảnh hưởng trên mạng.
Trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) lần đầu tiên đưa quy định “xuất bản báo chí trên không gian mạng”. Đây được xem là bước điều chỉnh quan trọng nhằm thích ứng với môi trường truyền thông số, nơi các nền tảng mạng xã hội ngày càng chi phối dòng chảy thông tin và tạo ra áp lực cạnh tranh lớn đối với báo chí truyền thống.
Pháp Luật TP.HCM đã có trao đổi với TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền, chuyên gia kinh tế báo chí, ĐH Kansas State (Mỹ), về nội dung này.
Có lợi cho báo chí?
. Phóng viên: Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) lần này bổ sung quy định về hoạt động của cơ quan báo chí trên không gian mạng, coi “xuất bản báo chí trên không gian mạng” là hình thức chính thức của sản phẩm báo chí. Bà đánh giá thế nào về việc này?
+ TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền: Trong tờ trình dự án Luật Báo chí (sửa đổi) ngày 22-10-2025, cơ quan soạn thảo nhận định việc cơ quan báo chí có kênh nội dung trên không gian mạng là xu thế tất yếu của chuyển đổi số nhằm lan tỏa nội dung và khai thác nguồn thu quảng cáo số. Đồng thời, lưu ý rằng các chính sách hỗ trợ phát triển báo chí hiện chưa áp dụng cho hình thức báo chí trên không gian mạng.

TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền. Ảnh: ELEAZAR “EL” YISRAEL
Vì vậy, dự thảo đề xuất đưa các kênh nội dung trên mạng vào danh mục sản phẩm báo chí và quy định hoạt động báo chí trên không gian mạng cũng như trách nhiệm của cơ quan báo chí khi mở kênh.
Điều này cho thấy cơ quan quản lý muốn tạo ngoại ứng tích cực và hỗ trợ sự phát triển của các kênh nội dung số. Nếu thực hiện đúng tinh thần đó, những quy định mới sẽ có lợi cho báo chí.
Đặc biệt, tôi cũng đánh giá cao đề xuất cho phép cơ quan báo chí tích hợp dịch vụ trực tuyến nhưng tiếc là trong tờ trình lần này lại không quy định việc trang thông tin tổng hợp, mạng xã hội khi sử dụng tin, bài phải có thỏa thuận với cơ quan báo chí. Nếu kết hợp cả hai việc này sẽ tạo nguồn thu mới cho cơ quan báo chí, dù không dễ áp dụng.
Úc và Canada từng ra luật bắt buộc các nền tảng mạng xã hội trả phí cho báo chí nhưng gặp khó khăn trong việc quy định cơ quan báo chí nào đạt tiêu chuẩn để được trả phí và trả bao nhiêu thì phù hợp, chưa kể các nền tảng có thể từ chối việc đăng tải tin tức. Nếu quyết tâm thực hiện việc “đòi tiền” thay báo chí, có lẽ luật cần thêm quy định bắt các nền tảng mạng xã hội phải đăng tải tin tức cần thiết cho người dân.

Muốn thành công, các tòa soạn cần có những “ngôi sao” mạng xã hội của riêng mình. Ảnh: NGUYỆT NHI
. Bên cạnh những điểm tích cực, việc quy định trách nhiệm của cơ quan báo chí khi mở kênh nội dung trên không gian mạng cũng được cho là có thể phát sinh rủi ro?
+ Tôi cho rằng những quy định về lưu chiểu, thông báo và kết nối trực tuyến với cơ quan quản lý trước và sau khi đưa nội dung lên mạng có thể tạo cảm giác như muốn kiểm soát chặt hơn thông tin cơ quan báo chí đưa lên không gian mạng.
Việc tiền đăng lẫn hậu kiểm đều có thể tạo ra chilling effect (hiệu ứng rén) hay hiện tượng báo chí tự kiểm duyệt, không dám phản biện mạnh do lo ngại vi phạm những điều cấm vốn có ranh giới khá mong manh. Và với quá nhiều sự giám sát, báo chí luôn trong tình trạng phải lưỡng lự, cân nhắc, cắt xén nhiều hơn trước khi đưa thông tin lên mạng, dẫn đến việc không nhanh nhạy, không nhiều chiều bằng các nhà báo công dân hay các bạn làm công việc sáng tạo nội dung đơn thuần khác.
Về mặt kỹ thuật, các công cụ lắng nghe mạng xã hội hoàn toàn có thể giúp cơ quan quản lý theo dõi xu hướng thông tin trên mạng mà không cần phải gây lo lắng không cần thiết.
Nếu Nhà nước đầu tư phát triển cơ sở dữ liệu để minh bạch hóa hoạt động quản lý của Nhà nước sẽ hỗ trợ báo chí phát triển tốt hơn, đặc biệt là trong thực hiện thông tin đồ họa.
Dưới góc độ sử học, việc có một hệ thống lưu chiểu riêng dành cho thế hệ sau là cần thiết nhưng cơ quan quản lý nên cân nhắc giữa lợi ích và bất lợi của việc quản lý quá kỹ nội dung thông tin trên báo chí. Theo tôi, cái gì cũng có thể quản lý kỹ, duy chỉ có thông tin là phải để lưu thông nhiều chiều mới tốt cho xã hội.

Nghề báo vốn đã khó, làm báo trong môi trường số càng khó hơn. Trong ảnh: Các phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM tác nghiệp trong đại dịch COVID-19. Ảnh: HOÀNG GIANG
Cần “ngôi sao” mạng xã hội
. Vậy đâu là cơ hội và thách thức đối với các cơ quan báo chí khi hoạt động trên không gian mạng?
+ Thực tế, không gian mạng nói chung và mạng xã hội nói riêng không phải là “không gian mới” đối với báo chí. Báo chí Việt Nam cũng như báo chí toàn cầu đã hiện diện trên nền tảng này từ rất sớm nhưng phải đối diện với một sự thật phũ phàng là không thể cạnh tranh nổi với các influencers (người có sức ảnh hưởng trên mạng). Đây là thực trạng mà báo chí ở nhiều quốc gia đều phải chấp nhận.
Muốn thành công, các tòa soạn cần có những “ngôi sao” mạng xã hội của riêng mình. Chẳng hạn, tờ Washington Post đã rất thành công trên TikTok nhờ nhà báo Dave Jorgenson. Đáng chú ý, anh rời tòa soạn vào tháng 7-2025 để lập kênh riêng và giới quan sát đang dõi theo xem một thương hiệu cá nhân liệu có đủ sức cạnh tranh lại một thương hiệu báo chí lâu đời hay không.
Như đã nói, về mặt cơ hội, các nhà báo sẽ có thêm sự hỗ trợ, có thể về tài chính hoặc qua các cơ chế khác mà dự thảo luật chưa quy định cụ thể, nhằm khuyến khích, định hướng các chiến lược phát triển nội dung trên mạng.
Dù dự thảo chưa đề cập, tôi dự đoán hoạt động liên kết giữa cơ quan báo chí và các công ty truyền thông sáng tạo nội dung cũng sẽ sôi động hơn khi các kênh nội dung này được công nhận là sản phẩm báo chí thực thụ.
Trên tạp chí Journalism Studies, Yin, Zhen và Fu từng công bố nghiên cứu định tính về mô hình liên kết giữa cơ quan báo chí có giấy phép và các công ty truyền thông tại Trung Quốc vào năm 2023. Nghiên cứu cho thấy sự nở rộ của các liên kết giữa báo chí chính thống và các doanh nghiệp tư nhân làm nội dung thường đăng ký dưới danh nghĩa công ty PR, hãng phim, công ty văn hóa…
Điều này phản ánh nỗ lực của lớp trẻ đam mê nghề báo nhưng khó trở thành nhà báo trong hệ thống báo chí nhà nước. Đây là thực tế mà cơ quan quản lý báo chí Việt Nam có thể tham khảo. Nhu cầu và khát vọng làm báo chân chính luôn có, vấn đề là liệu chúng ta có tạo điều kiện để họ bước vào nghề và sống được với nghề hay không.
Vị thế của báo chí chính thống trên mạng xã hội sau khi Luật Báo chí (sửa đổi) có hiệu lực có được nâng lên hay không, tôi chưa thể khẳng định. Điều này phụ thuộc vào chất lượng nội dung, ưu tiên hiển thị của từng nền tảng và thị hiếu công chúng. Do đó, cơ hội và thách thức trên mạng xã hội là như nhau, thành công vẫn là một ẩn số, không phải cứ đầu tư lớn là thu được lợi nhuận.
Về thách thức từ các quy định mới, biên tập viên sẽ phải nhạy cảm hơn với thị hiếu công chúng và điều này dễ khiến họ khó cân bằng giữa việc lựa chọn nội dung hữu ích và nội dung “chiều” thị hiếu.
Các nhà báo cũng phải nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, hạn chế tối đa sai sót trong kiểm chứng thông tin và như lâu nay, tuyệt đối tránh vi phạm các điều cấm trong luật. Đồng thời, họ cần năng lực thu hút công chúng trên mạng - một yêu cầu ngày càng khắt khe hơn trong bối cảnh số hóa.
Nghề báo vốn đã khó, làm báo trong môi trường số càng khó hơn. Tôi hiểu mong muốn của cơ quan làm luật trong việc hạn chế thông tin sai lệch; tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy những tiếng nói khác biệt thường dễ bị lấn át bởi cách diễn giải quy định từ phía cơ quan thực thi. Vì thế, tôi kỳ vọng tiếng nói phản biện trung thực của nhà báo sẽ được tôn trọng và bảo vệ khi luật sửa đổi được cụ thể hóa thành các quy định chi tiết.
. Bấy lâu nay, nhiều cơ quan báo chí đã chủ động mở kênh YouTube, fanpage, TikTok, ứng dụng di động… nhưng chưa có khung pháp lý điều chỉnh cụ thể. Với việc luật hóa lần này, cơ quan quản lý báo chí và cơ quan báo chí cần thực hiện quy trình thế nào để “hợp thức hóa” các kênh thông tin này?
+ Theo tôi hình dung, việc “hợp thức hóa” này nhằm để công chúng biết, tránh nhầm lẫn với các tài khoản giả mạo và cơ quan quản lý cũng dễ bề kiểm soát.
Có lẽ các cơ quan báo chí cần thiết lập danh mục tài khoản mạng xã hội trên trang chủ với các đường dẫn đến trang mạng xã hội. Thực tế thì tờ New York Times và tờ Washington Post có rất nhiều tài khoản mạng xã hội nhưng không liệt kê tài khoản nào trên trang chủ cả, trong khi tờ USA Today liệt kê tài khoản chính trên từng nền tảng.
Đối với cơ quan quản lý báo chí, tôi hình dung họ sẽ dựa vào tờ khai, có khả năng là tờ khai điện tử để lên danh sách kênh nội dung của các cơ quan báo chí, chỉ không rõ có phải liệt kê tất cả các tài khoản phụ không thì cần chờ thêm quy định chi tiết.



Các phóng viên tác nghiệp tại Hội báo toàn quốc năm 2024 tại TP.HCM. Ảnh: THUẬN VĂN
Quy định cụ thể để bảo vệ quyền tác giả
. Thời gian qua, báo chí chính thống gặp nhiều khó khăn khi cạnh tranh với thông tin trên mạng xã hội, thậm chí còn phải đi “minh định” các thông tin sai sự thật. Theo bà, quy định mới có tạo được thế cạnh tranh cho báo chí chính thống không?
+ Ở thời đại báo chí công dân, chuyện tiếng nói của các cơ quan báo chí đôi khi không có sức mạnh bằng một vài cá nhân nổi tiếng trở nên phổ biến. Trước đây, báo chí dựa vào việc khai thác tin tức của người nổi tiếng, nay thì người nổi tiếng tự khai thác hình ảnh của chính mình nên dĩ nhiên báo chí truyền thống sẽ không cạnh tranh lại.
Thế mạnh của báo chí chuyên nghiệp nằm ở khả năng phối kiểm thông tin và thường được cho là đáng tin cậy hơn các thông tin không rõ nguồn gốc trên mạng. Tuy nhiên, một khi thông tin thất thiệt đã được phát đi, tốc độ “minh định” khó có thể theo kịp.
Tôi nghĩ Luật Báo chí (sửa đổi) lần này tập trung điều chỉnh hành vi của báo chí chứ không điều chỉnh hành vi của các nền tảng mạng xã hội. Do vậy, việc báo chí chính thống có thể cạnh tranh được với các cá nhân, tổ chức làm nội dung trên mạng bằng thế mạnh trong việc đưa tin chính xác hay không còn cần tính đến hiệu quả trong thuật toán quản lý nội dung của các nền tảng số nữa.
Ngoài ra, tuy tác phẩm báo chí được bảo hộ quyền tác giả theo nhiều điều luật và văn bản dưới luật nhưng các nhà báo vẫn phải nỗ lực tự kiểm tra, tự phát hiện là chính. Lần sửa đổi này bổ sung quy định rằng “cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm báo chí của cơ quan báo chí phải có thỏa thuận với cơ quan báo chí theo quy định của pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan”. Đây là bước tiến so với Luật Báo chí 2016 nhưng vẫn mang tính khung, chưa đặt ra yêu cầu rõ ràng đối với các nền tảng mạng xã hội hay những tài khoản chuyên sao chép nội dung báo chí.
Nếu vấn đề xâm phạm bản quyền được cải thiện thực chất, báo chí chính thống mới phát huy được hết thế mạnh tiếp cận các nguồn tin chính thống của mình.

Thế mạnh của báo chí chuyên nghiệp nằm ở khả năng phối kiểm thông tin và thường được cho là đáng tin cậy hơn các thông tin không rõ nguồn gốc trên mạng.
. Bà vừa nhắc đến tình trạng xâm phạm bản quyền báo chí trên không gian mạng - một “nỗi đau âm ỉ” của người làm báo. Theo bà, liệu có giải pháp khả thi nào cho vấn đề này không?
+ Như tôi vừa nói ở trên, Luật Báo chí 2016 và dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) chưa chú trọng vào vấn đề bảo hộ quyền tác giả của tác phẩm báo chí. Mặc dù Việt Nam có Luật Sở hữu trí tuệ và các nghị định chi tiết nhưng tình hình sao chép tác phẩm báo chí không xin phép vẫn khá hỗn loạn. Đôi khi, các tác giả cũng chỉ cần người sao chép xin lỗi và gỡ bỏ, chứ cũng không thưa kiện để được bồi thường.
Theo tôi, các văn bản dưới luật cần quy định cụ thể hơn về việc bảo vệ quyền tác giả đối với các tác phẩm báo chí, trong đó có các tác phẩm báo chí phát sinh từ các kênh nội dung trên không gian mạng của cơ quan báo chí, vốn rất dễ bị sao chép.
Hiện nay, các tác giả, trong đó nhà báo vẫn phải dựa vào chức năng quét bản quyền tích hợp trên các nền tảng số nhưng những người dùng sao chép lậu vẫn có cách để tránh bị đánh bản quyền.
Vì vậy, tôi cho rằng các cơ quan báo chí cần củng cố bộ phận pháp lý chuyên trách cho hoạt động trên không gian mạng, nhằm chủ động bảo vệ tài sản trí tuệ và tránh những thiệt hại tài chính không đáng có.
. Xin cảm ơn bà.





























