Long đong con cá, phận người
Những lò lửa đỏ rực, những nồi nước sôi hấp từng rổ cá, những phận mưu sinh miệt mài từ nửa đêm trong hừng hực đặc quánh của nhiệt độ cao. Phận cá gắn với phận người cứ long đong lặng lẽ, nhưng kiên cường giữa những đổi thay từng ngày.
Đỏ lửa lò hấp
Đêm. Cá về. Dưới ánh đèn cảng cá, từng chiếc ghe lần lượt cập cảng và “đổ cá”. Những mẻ cá lớn cứ dồn xuống cảng, mang theo cái mùi đặc trưng của biển. Những con hẻm nhỏ ở bến Hàm Tử (phường Quy nhơn, Gia Lai) lại tất bật những bước chân gánh gồng cá, mực, các loại hải sản đưa về lò hấp. Tiếng gọi, tiếng chuyện trò lao xao trong ánh lửa rực lên hắt sáng cả không gian quánh đặc mùi cá, mùi lửa, mùi nước sôi. Tất cả đều tất bật. Những con người suốt mấy chục năm dù nắng hay mưa, đêm đêm vẫn miệt mài ra đón những mẻ cá bên cảng rồi chở về lò hấp. Để cho ra những mẻ cá, mẻ mực hấp ngon lành đổ đi khắp các chợ mà không mấy ai biết được, họ phải chịu đựng những cực khổ nhiều như thế nào mới cho ra những sản phẩm ấy.

Những người phụ nữ thoăn thoắt phân loại, làm cá trước khi cho vào lò hấp
Gần 35 năm đứng bên lò lửa, ông Nguyễn Văn Tuấn đã dạn dày kinh nghiệm cho từng mẻ hấp. Ánh lửa bừng lên soi rõ từng giọt mồ hôi nặng trĩu đổ xuống khuôn mặt đầy vết chân chim khắc khoải. Thường xuyên tiếp xúc với cá, hấp cá trong những lò lửa cháy phừng phừng, hơi cá bốc lên, quẩn quanh trong khoảng không gian hạn hẹp. Lâu dần, cái mùi ấy ám vào người, ám vào cả những giấc mơ. Trong không gian chỉ vẻn vẹn 30 hay 40 mét vuông, nhưng cơ man nào là những thúng, những vỉ cá xếp sẵn chờ vào nồi hấp. Từng lò lửa đốt củi cháy rừng rực tỏa hơi nóng bỏng rát mặt người. Trên lò lửa, những chiếc chảo hay nồi lớn nước sôi lục bục hấp từng mẻ cá, mẻ mực để cho ra thành phẩm. Cá nục, cá cơm, mực, cá ngừ hay nhiều loại hải sản khác đã được đưa về, làm sạch sau đó dùng sọt vớt ra để ráo, rồi lần lượt đưa vào lò hấp. Người thợ nhấc bổng sọt cá với cân nặng chừng 10 kg lên cao để cho vào nồi nước sôi rồi lắc sọt cá sao cho ngập đều nước.
Mỗi mẻ cá hoặc mực được hấp từ 15-20 phút, cứ thế thay liên tục từng mẻ hấp được hoàn thành. Người thợ chính của lò hấp phải có sự dẻo dai và khỏe khoắn bởi mỗi đêm phải đứng liên tục từ 6-8 tiếng. Ông Tuấn chia sẻ, người thợ hấp cá lâu năm sẽ điều chỉnh lượng nước, thời gian hấp và nhiệt độ bằng kinh nghiệm bản thân. Thời gian hấp cá của mỗi loại cũng sẽ được căn chỉnh hợp lý để cá chín tới vừa đảm bảo thịt dai, vừa giữ nguyên được vị ngon. Cách thức hấp cá, mực chín tới là một cách bảo quản thực phẩm nhằm giữ nguyên độ ngọt tự nhiên đã có từ nhiều năm, gắn bó với các hộ gia đình. Tất cả đều được đong đếm bằng mắt và bằng cảm giác sau nhiều năm kinh nghiệm với nghề. Mỗi ngày mọi người đều làm hết sức, rồi nhìn mẻ cá ra lò thơm, chắc thịt, là thấy công sức bỏ ra xứng đáng.

Trong lò hấp cá lúc 5 giờ sáng
Trong gian nhà mấy chục mét vuông chỉ toàn cá với mực, những người lao động như lọt thỏm giữa các rổ hải sản bày la liệt. Khói lò lửa nghi ngút cứ cuộn bốc lại bị dội xuống bởi mái tôn thấp, trộn vào mùi cá tạo nên không gian đặc quánh. Người làm nghề ấy chấp nhận mất đi “mùi cơ thể”, chỉ còn lại cái mùi đặc trưng của biển, của cá, của những giọt mồ hôi lam lũ. Cái nghề ấy, cái mùi ấy đã làm nên những câu chuyện buồn vui chỉ người trong nghề mới hiểu. Trong hàng trăm vạn nghề trên thế gian, có lẽ nghề hấp cá là một nghề khó khăn nhất đối với mọi người và đặc biệt là người phụ nữ. Dù không hề nặng nhọc nhưng cái khó khăn lại nằm ở chỗ không ai ngờ tới, đó là mùi. Trong không gian mấy chục mét vuông mà xung quanh chỉ toàn cá là cá. Gần ngay bên là lò lửa cháy hừng hực, bốc khói nghi ngút, cuốn theo mùi cá lan tỏa khắp không gian, người phụ nữ ở đó trở nên bé nhỏ đến lạ lùng. Họ bị thứ mùi đặc trưng của cá biển “ướp” vào người năm này qua năm khác, suốt mấy chục năm. Bà Võ Thị Phụng (62 tuổi) làm nghề hấp cá đã gần 30 năm nay bộc tuệch: “Mới đầu vào làm thì cũng có chút khó chịu. Làm cái nghề này thì phải giỏi chịu đựng. Cái nghề này nó lựa người chứ người không lựa được nó. Phải có duyên, duyên phải “nợ” mới ở được với nhau. Nhiều lúc thèm được ngửi mùi người đúng nghĩa, nhưng luôn bị cái mùi cá này át đi, đến nỗi khi ăn, khi uống cũng chỉ còn ngửi được cái mùi này mà thôi”.
Không ít chuyện buồn vui trong cuộc đời họ phát sinh từ cái nghề này, từ thứ mùi đặc trưng ấy. Tưởng chừng, cái mùi nặng nề ấy ngăn trở những yêu thương, nhưng chẳng ai ngờ vẫn có những chuyện tình nơi lò hấp. Như chuyện anh Lê Văn Sơn và vợ, hai người đến với nhau rồi dậy sớm cùng nhau vượt qua những nhọc nhằn của nghề hấp cá. Tương tự, vợ chồng chị Nguyễn Thị Hiền và anh Cáp Văn Đĩnh cũng vậy. Trong vất vả, cái mùi cá tanh hôi kia càng làm cho những đôi vợ chồng ấy gắn bó, yêu thương nhau nhiều hơn.
Niềm phận cá, nỗi phận người
Mấy mươi năm nay, từ sáng sớm đến chiều tối bên những bếp lửa luôn rực đỏ, nơi người dân cần cù mưu sinh với nghề hấp cá. Bên trong những gian phòng nhỏ chưa đầy 40 mét vuông, không khí lúc nào cũng đặc quánh hơi nóng của lửa, của nước và mùi tanh đặc trưng của cá biển. Nhiệt độ trong gian bếp nhiều khi vượt quá 50 độ C, có lúc lên tới 70 độ C. Nếu không cẩn thận chu đáo, rất dễ bị bỏng nhiệt từ củi lửa hoặc nước sôi từ nồi hấp. Mỗi ngày, công việc kéo dài từ nửa đêm đến khi hết hàng mới thôi. Giai đoạn cao điểm của những lò hấp thường từ tháng 3 tới tháng 10 hàng năm phụ thuộc phần lớn vào nghề đi biển của ngư dân, khi mùa cá rộ bởi thời tiết thuận lợi cho việc đánh bắt cá. Trải qua nhiều thập kỷ, công việc hấp cá tại khu vực cảng cá Quy Nhơn này vẫn là nguồn thu nhập chính của hàng chục hộ dân địa phương, dẫu tiền công từ 200.000 đến 400.000 đồng mỗi ngày cũng là mức thu nhập khá với nhiều người.

Công đoạn hấp cá rất cực khổ bởi hơi nóng và mùi cá bốc lên
Trong không gian nóng bức và nồng nặc mùi tanh, nhưng những người lao động nam lẫn nữ vẫn vui vẻ cho công việc của mình. Những tiếng cười đùa vui vẻ trong khi đôi bàn tay vẫn thoăn thoắt làm việc. Ngồi giữa những thùng cá nục, sọt mực chất đống, những người phụ nữ vừa làm việc vừa pha trò cười đùa như không để ý gì đến mùi tanh xung quanh. Gần đó, người đàn ông đứng lò, dù mồ hôi nhễ nhại vì nóng cũng không quên góp một vài câu bông đùa. Anh Lê Đức Sơn (58 tuổi), chủ một lò hấp cá bộc bạch, bình quân một thùng cá sau khi hấp xong lời 30.000 - 35.000 đồng; trừ củi, muối, công thì còn 20.000 - 25.000 đồng.

Từ sáng sớm đến chiều tối, bên những bếp lửa luôn rực đỏ, nơi người dân cần cù mưu sinh với nghề hấp cá
Mọi thứ còn tùy vào nguồn cung của các tàu cá. Cá nhiều thì hấp nhiều, cá ít thì hấp ít. Ngày nào cá nhiều, lò của anh hấp được khoảng 50-60 thùng. Vị chi tiền công anh được 450.000 - 500.000 đồng/ngày. Những đồng tiền lam lũ ấy gom góp lại để dành nuôi gia đình, nuôi hai đứa con ăn học lớn khôn. Những mùa biển động, cá hấp được ít nhiều khi không đủ phải vay mượn của anh chị em ở các lò bên. Trước kia anh cũng có đi bạn trên ghe người ta, cũng kiếm lắm. Nhưng nghề làm ghe bấp bênh quá, thế là anh vào bờ, cùng vợ mở lò hấp cá. Cực một chút nhưng cũng tạm được. Đời mình cực khổ chút xíu, chủ yếu dồn hết cho mấy đứa con. Mong sau này nó khấm khá hơn mình.
Câu chuyện ấy của anh Sơn, cũng là câu chuyện chung của nhiều phận người làm nghề hấp cá ở bến Hàm Tử này. Họ chấp nhận cực khổ thêm một chút, chấp nhận khốn khó để đắp đổi tương lai tươi sáng sau này cho những đứa con. Câu chuyện ấy được khơi gợi lên, những người đàn bà đàn ông lại tíu tít khoe những đứa con của mình, có đứa vừa học vừa làm ở trong TP. Hồ Chí Minh, có đứa sắp tốt nghiệp, có đứa mới vào cấp 3... nhưng đứa nào cũng ngoan ngoãn. Cứ thế, với những người làm nghề hấp cá, chỉ cần vắng một ngày là họ lại nhớ quay nhớ quắt, đi đâu hay có công việc gì chừng đôi ba hôm lại mong chóng về lại những con hẻm cá hấp này. Ở đó có tình người, có những câu chuyện buồn vui chẳng cần giấu diếm mà cứ phơi bày bộc tuệch ra cùng nhau, cùng sẻ chia giữa những mảnh đời lam lũ nơi lò hấp.

Những mẻ cá hấp ra lò nghi ngút khói, rất thơm và chắc thịt
Những phận người ở hải cảng đến với nghề phần đông là vì cuộc sống đưa đẩy, hoàn cảnh thôi thúc mà ra. Như bà Hai Mạnh gần 70 tuổi nhưng có tới hơn 40 năm làm nghề, trách nhiệm của một người chị thay cha mẹ phải lo cho các em đè nặng trên vai người phụ nữ miệt biển đã đưa bà đến với nghề hấp cá. Những con người nơi đây, cái nghề đã chọn họ và họ chọn nó làm kế sinh nhai, đổ những giọt mồ hôi thấm mùi cá, muối biển mặn chát từ đêm cho tới trưa về chiều, nhìn qua ai có thể vui cho nổi. Nhưng trong cái nhọc nhằn lam lũ, họ vẫn cần mẫn lọc chắt ra niềm vui riêng cho mình, là những đồng tiền thiện lương nuôi sống cả gia đình 5 - 7 miệng ăn, là hy vọng được đặt nơi những đứa con. Ai cũng mong cuộc đời con mình sẽ không bị ướp bởi muối, bởi mùi cá tanh nồng đến mức mồ hôi ra mặn chát, mất cả “mùi người” như thế.
Con cá với phận người cứ gắn bó lấy nhau, giữ ngọn lửa đỏ trong các lò hấp ở nơi này cháy suốt mấy chục năm qua, không chỉ để những mẻ cá hấp giữ được vị ngon tươi, mà còn nuôi sống nhiều thế hệ người lao động cần mẫn và lặng lẽ bên hải cảng.





























