Logistics phải được coi là mạch máu của nền kinh tế hiện đại
Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái, Việt Nam cần đặt mục tiêu giảm chi phí logistics xuống dưới 12% GDP vào năm 2030, thông qua cải thiện hạ tầng kết nối, đơn giản hóa thủ tục hải quan và phát triển trung tâm logistics vùng.
Tại Hội thảo “Góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức ngày 7/11, PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái - Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Vận tải Đường sắt Việt Nam góp ý vào Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam.

PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái - Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Vận tải Đường sắt Việt Nam.
Việt Nam cần đặt mục tiêu giảm chi phí logistics xuống dưới 12% GDP vào năm 2030
PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái nhấn mạnh, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng được chuẩn bị công phu, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tổng kết sâu sắc 40 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011). Văn kiện đã thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; kế thừa, phát triển tư duy lý luận mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Tư duy phát triển mang tính đột phá, lấy “con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực và mục tiêu của phát triển”, đồng thời đề cao yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng - là điểm sáng nổi bật cần được tiếp tục nhấn mạnh. Tuy nhiên, một số nội dung cần cụ thể hóa hơn về mô hình tăng trưởng mới, định hướng phát triển vùng, đổi mới thể chế và tổ chức bộ máy thực thi chiến lược phát triển bền vững.
Chủ đề Đại hội cần thể hiện rõ hơn yêu cầu “phát triển nhanh, bền vững, bảo đảm độc lập tự chủ” trong bối cảnh biến động toàn cầu và chuyển đổi xanh - số. PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái đề nghị bổ sung nhấn mạnh cụm từ “Phát triển xanh, chuyển đổi số, gắn với nâng cao năng lực nội sinh và sức cạnh tranh quốc gia” vào phần tầm nhìn đến năm 2045.
Về phát triển kinh tế - xã hội, theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đã xác định phương hướng tổng quát là “phát triển nhanh và bền vững trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn”. Tuy nhiên, để cụ thể hóa định hướng này thành hệ thống chính sách và công cụ thực thi hiệu quả, cần phân tích và làm rõ hơn một số nội dung sau:
(1) Làm rõ hơn vai trò và cơ chế phát triển của các trụ cột kinh tế mới: Kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo phải được xác định là nguồn lực tăng trưởng chủ đạo, thay thế dần cho mô hình dựa vào vốn và lao động giá rẻ. Cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia gắn với các trung tâm nghiên cứu, đại học, doanh nghiệp công nghệ cao; phát triển thị trường khoa học – công nghệ và cơ chế sở hữu trí tuệ rõ ràng.
Hạ tầng số và kinh tế số không chỉ là lĩnh vực công nghệ, mà là nền tảng mới của năng suất tổng hợp (TFP). Đề nghị Văn kiện bổ sung chỉ tiêu đến năm 2030: Kinh tế số chiếm ít nhất 30% GDP, trong đó khu vực công nghiệp – dịch vụ số đạt tốc độ tăng gấp 2 lần tốc độ tăng GDP chung.
Kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn cần được cụ thể bằng các chỉ tiêu định lượng và cơ chế chuyển đổi xanh trong các ngành trọng điểm: năng lượng, giao thông, xây dựng, sản xuất và tiêu dùng. Nên nhấn mạnh mô hình “tăng trưởng không phát thải”, khuyến khích đổi mới công nghệ giảm phát thải, sử dụng năng lượng tái tạo và tái chế chất thải.
Kinh tế logistics phải được coi là “mạch máu của nền kinh tế hiện đại”, có tính lan tỏa cao tới mọi ngành. Việt Nam cần đặt mục tiêu giảm chi phí logistics xuống dưới 12% GDP vào năm 2030, thông qua cải thiện hạ tầng kết nối, đơn giản hóa thủ tục hải quan và phát triển trung tâm logistics vùng, đặc biệt là hệ thống cảng cạn (ICD) và kết nối đường sắt – cảng biển – khu công nghiệp.
(2) Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông chiến lược, lấy đường sắt làm trụ cột xanh
Cần xác định rõ đường sắt là phương thức vận tải có hiệu quả năng lượng cao, phát thải thấp, an toàn và bền vững nhất, phù hợp với định hướng phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) đến năm 2050.
Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam là “xương sống” kết nối quốc gia
Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Thái, Văn kiện bổ sung chỉ đạo chiến lược: Xây dựng Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, coi đây là “xương sống” kết nối quốc gia, vừa giảm tải cho hàng không – đường bộ, vừa tạo động lực phát triển các đô thị hành lang kinh tế.
Tăng cường kết nối đường sắt với cảng biển, sân bay và khu công nghiệp, hình thành mạng logistics xanh liên hoàn.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) trong quản lý, điều hành vận tải, bảo trì, khai thác hạ tầng, hướng tới đường sắt thông minh – xanh – số hóa. Đường sắt không chỉ là lĩnh vực kỹ thuật, mà còn là động lực cấu trúc lại không gian phát triển vùng, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển cân bằng lãnh thổ.
(3) Hoàn thiện cơ chế huy động nguồn lực và mô hình đầu tư, Văn kiện cần nhấn mạnh yêu cầu đổi mới mạnh mẽ cơ chế huy động vốn đầu tư hạ tầng: phát triển thị trường vốn dài hạn, quỹ đầu tư phát triển hạ tầng quốc gia, và khung pháp lý ổn định cho hợp tác công – tư (PPP) và bổ sung cụ thể cơ chế chia sẻ rủi ro và lợi ích công bằng giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nhà đầu tư trong các dự án PPP, nhất là các lĩnh vực có tính công ích cao như đường sắt, năng lượng tái tạo, môi trường.
Thúc đẩy mô hình “đầu tư định hướng chiến lược” (Strategic Investment) do Nhà nước dẫn dắt để khơi thông các lĩnh vực nền tảng, sau đó tạo điều kiện cho tư nhân tham gia theo cơ chế cạnh tranh minh bạch.
Tăng cường hợp tác quốc tế, huy động nguồn vốn xanh, tín dụng khí hậu, gắn với chuyển giao công nghệ và quản trị dự án hiện đại.
Về phát triển vùng và liên kết lãnh thổ, Văn kiện nên nhấn mạnh hơn phát triển cân bằng vùng miền, nhất là giữa vùng động lực và các vùng còn khó khăn. Đề nghị làm rõ hơn cơ chế điều phối vùng, nâng cao vai trò của các hội đồng vùng, tránh cục bộ địa phương.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực
Về đổi mới thể chế và phương thức lãnh đạo, cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Đề xuất đưa vào Văn kiện nội dung “Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số và quản trị công hiện đại”, coi đây là yêu cầu cấp bách. Đẩy mạnh cải cách hành chính, minh bạch hóa hoạt động công vụ, nâng cao trách nhiệm giải trình.
Về vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đề nghị bổ sung nội dung phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các hội nghề nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kinh tế - hạ tầng – môi trường. Tăng cường cơ chế đối thoại chính sách giữa Nhà nước – doanh nghiệp – nhà khoa học – người dân, bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”.
Về chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cấu trúc ngành, cần cụ thể hóa tiêu chí định lượng về năng suất, hiệu quả sử dụng tài nguyên và phát thải carbon, gắn với cơ chế đo lường, báo cáo, kiểm định độc lập. Đề nghị sớm hình thành Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia về phát triển xanh và kinh tế tuần hoàn, làm cơ sở hoạch định chính sách và giám sát chiến lược. Nghiên cứu bổ sung nội dung “kinh tế hạ tầng giao thông thông minh (Smart Transport Infrastructure Economy)” – tích hợp dữ liệu số, trí tuệ nhân tạo và công nghệ cảm biến trong quản lý khai thác giao thông, đặc biệt là đường sắt và logistics.

Cần coi đường sắt là phương thức vận tải chiến lược trong mạng lưới logistics quốc gia.
Về phát triển hạ tầng và logistics, cần coi đường sắt là phương thức vận tải chiến lược trong mạng lưới logistics quốc gia, đóng vai trò then chốt trong giảm chi phí logistics và phát thải CO₂. Đề xuất bổ sung trong Văn kiện chỉ đạo xây dựng Chiến lược phát triển đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam và mạng lưới đường sắt kết nối cảng biển, khu công nghiệp, trung tâm logistics.
Đề nghị đưa vào Văn kiện định hướng chính sách tích hợp giao thông – năng lượng – số hóa, phù hợp với xu hướng “Hạ tầng đa mục tiêu” của thế giới.
Về đổi mới khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực, Văn kiện cần khẳng định mạnh hơn vai trò của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là “động lực trung tâm của tăng trưởng năng suất”. Đề nghị bổ sung Chiến lược phát triển nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ và quản lý giao thông – logistics, gắn với đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ cho chuyển đổi số.
Tăng cường cơ chế đặt hàng nghiên cứu, kết nối giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cơ sở khoa học – đào tạo, hình thành mô hình “chính phủ – học viện – doanh nghiệp”.
Về phương pháp hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách, cần áp dụng cách tiếp cận “chính sách dựa trên bằng chứng” (evidence- based policy); huy động kết quả nghiên cứu khoa học, dữ liệu định lượng và mô hình mô phỏng trong xây dựng chính sách quốc gia. Đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu mở phục vụ phân tích, đánh giá tác động chính sách, tăng tính minh bạch và phản biện xã hội.
Đề nghị thành lập Hội đồng Tư vấn chiến lược phát triển bền vững và chuyển đổi xanh, có sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, nhằm hỗ trợ Ban Chấp hành Trung ương trong hoạch định chính sách dài hạn.
























