Loại quả trồng khắp Việt Nam, tốt ngang thuốc bổ
Quả ớt được trồng khắp Việt Nam, vừa làm gia vị vừa dùng làm thuốc, rất hữu hiệu nếu sử dụng đúng cách.
Theo bác sĩ Huỳnh Tấn Vũ, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM (Cơ sở 3), các bộ phận của cây ớt như quả, rễ và lá được dùng làm thuốc từ nhiều đời nay.
Theo y học cổ truyền, ớt có vị cay, nóng. Tác dụng khoan trung, tán hàn, kiện tỳ, tiêu thực, chỉ thống (giảm đau), kháng nham (chữa ung thư). Nhiều người thường dùng ớt để chữa đau bụng do lạnh, tiêu hóa kém, đau khớp, dùng ngoài chữa rắn rết cắn.
Trong ớt có chứa một số hoạt chất: Capsicain, là một Alkaloid chiếm tỷ lệ khoảng 0,05-2%. Cấu trúc hóa học được xác định là acid isodexenic vanilylamit, có đặc điểm bốc hơi ở nhiệt độ cao, gây hắt hơi mạnh.
Ngoài ra còn có Capsaicin - hoạt chất gây đỏ, nóng, chỉ xuất hiện khi quả ớt chín, chiếm tỷ lệ từ 0,01-0,1%. Capsaicin có tác dụng kích thích não bộ sản xuất ra chất endorphin, một chất morphin nội sinh, có đặc tính như những thuốc giảm đau, đặc biệt có ích cho những bệnh nhân bị viêm khớp mạn tính và ung thư.
Ớt giúp ngăn ngừa bệnh tim do chứa một số hoạt chất giúp máu lưu thông tốt, tránh được tình trạng đông vón tiểu cầu dễ gây tai biến tim mạch. Loại quả này còn có tác dụng ngăn ngừa tình trạng huyết áp tăng cao.
Ớt có một số tác dụng khác như khống chế bệnh tim mạch, phòng ung thư, ngừa tai biến tim mạch, tăng sức đề kháng, chống cảm mạo, chữa bệnh đau đầu, giảm mỡ máu, giảm béo.
Ngày nay nhiều nơi sử dụng chất Capsicain trong ớt để làm thuốc dán hoặc cream để thoa nhẹ giảm đau do di chứng của đau sau zona cũng rất hiệu quả.
Một số bài thuốc từ quả ớt
Chữa rụng tóc do hóa trị liệu: 100 g ớt trái ngâm với rượu trắng trong 10-20 ngày. Dùng rượu này bôi lên da đầu có tác dụng kích thích mọc tóc.
Chữa ăn uống kém tiêu do ung thư: 100 g ớt và 100 g hắc đậu xị, tán bột ăn hàng ngày.
Chữa ăn uống chậm tiêu: Ớt trái dùng làm gia vị, ăn hàng ngày.
Chữa đau dạ dày do lạnh: 1-2 quả ớt và 20 g nghệ vàng, tán bột uống ngày 2-3 lần.
Chữa viêm khớp mãn tính: 1-2 quả ớt, dây đau xương, thổ phục linh (củ khúc khắc) mỗi vị 30 g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa bệnh chàm (eczema): Một nắm lá ớt tươi và 1 thìa mẻ chua. Hai thứ giã nhỏ, lấy vải sạch gói lại, đắp lên nơi bị chàm đã rửa sạch bằng nước muối.
Chữa tai biến mạch máu não: Lá ớt (loại ớt chỉ thiên quả nhỏ) đem giã nhỏ, thêm nước và ít muối, chắt nước cho người bệnh uống, bã đắp vào răng sẽ tỉnh.
Chữa rắn rết cắn: Lá ớt giã nhỏ, đắp vào nơi bị thương, băng lại. Ngày làm 1-2 lần cho đến khi hết đau, 2-3 giờ là khỏi.
Chữa bệnh vảy nến: 1 nắm to lá ớt cay (1 nắm chặt tay và đem sao chín nhưng không cháy), tinh tre đằng ngà cạo lấy 1 bát, 7-9 lá sống đời (lá thuốc bỏng), khoảng 300 g thiên niên kiện. Tất cả cho vào nồi với 2 lít nước, đun sôi kỹ, uống dần thay nước chè, uống chừng 3 ấm là khỏi.
Đau bụng kinh niên: Rễ cây ớt, rễ chanh, rễ hoàng lực, mỗi thứ khoảng 10 g. Sao vàng, sắc uống ngày 1 thang.
Chữa đau lưng, đau khớp: Ớt chín 15 quả, lá đu đủ 3 cái, rễ chỉ thiên 80 g. Tất cả đem giã nhỏ ngâm cồn với tỷ lệ 1/2, dùng để xoa bóp sẽ mau khỏi.
Chữa mụn nhọt: Lá ớt giã nát với ít muối, dùng đắp vào nhọt đang mưng mủ sẽ bớt đau nhức, dễ vỡ mủ, mau lành.