Loại nhạc cụ của người Raglai có thể kết nối với 'đấng siêu nhiên' nguy cơ bị mai một
'Thôn, xã đều được tỉnh hỗ trợ mua mã la nhưng nhiều nơi đánh không kêu. Nghệ nhân biết cách diễn tấu ngày càng ít, giới trẻ lại không quan tâm văn hóa dân tộc', ông Cao Điệp Phới trăn trở trước nguy cơ mai một loại nhạc cụ thiêng của người Raglai.
Ở cái tuổi xấp xỉ “thất thập cổ lai hy”, ông Cao Điệp Phới, người có uy tín - Bí thư Chi bộ xã Cam Phúc Nam, tỉnh Khánh Hòa không giấu vẻ tự hào khi nhắc tới sự khởi sắc trong “bức tranh” phát triển kinh tế - xã hội của bà con Raglai những năm gần đây.
Với nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là vấn đề tạo công ăn việc làm, hỗ trợ sinh kế, nhà ở…, đời sống của người Raglai đã ổn định hơn hẳn so với trước. Nhiều hộ làm nông nghiệp (trồng xoài, nuôi dê…) vươn lên mức khá giả, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm để bà con lối xóm cùng cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần.

Ông Cao Điệp Phới là một trong số rất ít người biết cách sử dụng và truyền dạy mã la - một loại nhạc cụ thiêng theo quan niệm của người Raglai. Ảnh: Lê Anh Dũng
Ông Phới là một trong số rất ít người biết cách sử dụng và truyền dạy mã la - một loại nhạc cụ thiêng theo quan niệm của người Raglai. Điều khiến ông trăn trở nhất hiện nay là nguy cơ mai một bản sắc văn hóa dân tộc “Lớp nghệ nhân biết cách diễn tấu mã la ngày càng hiếm. Trong khi những người trẻ ít quan tâm đến văn hóa dân tộc mình”.
Các thế hệ người Raglai trước kia truyền rằng: Mã la có thể thay thế dân làng giao tiếp, kết nối với các đấng siêu nhiên; muốn nói chuyện hoặc cầu xin thần linh ban cho ân huệ gì đều phải tấu mã la.
Hiện nay, những người biết diễn tấu mã la chủ yếu là người già, khi họ mất đi, tiếng mã la có nguy cơ không còn.
Có mã la nhưng đánh không kêu
Từ năm 2014 đến nay, ông Phới dành rất nhiều tâm huyết cho việc bảo tồn, truyền dạy mã la.
“Không chỉ ở Cam Ranh, mà cứ chỗ nào cần hỗ trợ thì tôi đi chỗ đó. Hiện tôi vẫn tiếp tục vận động các nghệ nhân cao tuổi cố gắng bảo tồn một số loại nhạc cụ như mã la, chapi… Đấy là văn hóa vật thể mà người Raglai để lại cho các thế hệ con cháu. Còn về văn hóa phi vật thể như lễ bỏ mả, lễ cưới…, tôi cũng cùng các cụ cao tuổi nghiên cứu, giảm bớt nhưng nghi thức lạc hậu, không phù hợp, mà vẫn bảo đảm bản sắc tập tục của dân tộc mình”, ông Phới tâm sự.
Thế nhưng, theo ông Phới, công tác bảo tồn mã la hiện vẫn còn khá bất cập.
“Tỉnh đã cấp kinh phí mua mã la, xã, thôn nào cũng có rồi. Song sau khi mua về, phải có nghệ nhân điều chỉnh thì đánh mã la mới kêu. Thực tế bây giờ rất nhiều mã la không có người biết chỉnh nên đánh không kêu. Ở hầu hết các thôn, xã, hiếm người biết cách sử dụng nhạc cụ này”, ông Phới đau đáu phản ánh.
Ông đề xuất, phải có văn bản, chủ trương cụ thể hơn về công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của mã la.
“Cấp trên phải có văn bản cụ thể để chỉ đạo cấp xã mở các lớp truyền dạy mã la cũng như các điệu dân ca. Chúng tôi muốn phối hợp để làm cũng rất khó khăn về vấn đề kinh phí”, ông kiến nghị.

Mã la thường được dùng trong các lễ hội tiêu biểu của người Raglai. Ảnh: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Đề xuất hướng phát triển bền vững
Ghi nhận phản ánh của đại diện người có uy tín ở cơ sở, ông Lò Quang Tú, Vụ trưởng Vụ Tuyên truyền công tác dân tộc thiểu số và miền núi, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, cũng bày tỏ mối lo khi số lượng nghệ nhân người Raglai ngày càng ít đi, giới trẻ lại thờ ơ, không muốn học cách sử dụng các loại nhạc cụ như mã la.
Raglai là dân tộc thiểu số thuộc nhóm ngữ hệ Malayo-Polynedi và theo thiết chế mẫu hệ. Hiện nay, dân tộc Raglai sống chủ yếu ở vùng miền núi các tỉnh Nam Trung Bộ, tập trung nhiều nhất ở vùng núi tỉnh Khánh Hòa. Dân tộc Raglai có nhiều loại nhạc cụ truyền thống như mã la, đàn đá, kèn sarakel, đàn chapi...
“Cần có giải pháp hết sức căn cơ, bền vững từ cả phía các cấp quản lý cũng như các cộng đồng, cá nhân trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của đồng bào các dân tộc. Nếu không, bản sắc văn hóa dân tộc của đồng bào sẽ bị mai một”, ông Tú nhận định.
Ông gợi ý một hướng khả thi trong việc bảo tồn mã la cũng như các giá trị văn hóa truyền thống khác của người Raglai: Phát triển du lịch gắn với bản sắc dân tộc.
“Du khách rất thích mặc trang phục dân tộc, biểu diễn nhạc cụ dân tộc rồi chụp ảnh đăng trên mạng. Họ sẵn sàng trả tiền để được thụ hưởng những giá trị tinh thần ấy. Đây là hướng phát triển bền vững, vừa giúp bà con tăng thu nhập mà vẫn bảo tồn, phát huy được văn hóa dân tộc. Bà con có thể liên kết làm du lịch, xây dựng đề án, dự án khả thi, thông qua cơ quan công tác dân tộc cấp tỉnh hoặc các tổ chức đoàn thể ở địa phương, thì sẽ có thể vay được vốn để triển khai”, ông Tú mách nước.
Mã la là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng độc đáo của người Raglai - nhạc cụ cồng chiêng không có núm, các dân tộc ở cao nguyên gọi là chiêng bằng.
Mã la được sử dụng theo bộ. Theo quan niệm của người Raglai ở Khánh Hòa, mỗi bộ có ít nhất 3 chiếc, trong đó có 1 mã la mẹ. Bộ mã la 4 chiếc tượng trưng cho 1 mẹ và 3 con (con trưởng, con giữa, con út). Nhiều vùng có các bộ mã la 7, 9 hoặc 12 chiếc. Những bộ nhiều chiếc thì có nhiều mẹ: mã la mẹ cả, mã la mẹ hai, mã la mẹ ba... Trong đó, mẹ cả được hiểu là bà tộc trưởng đã có chồng và con, là người có quyền thế cao nhất.
Khác với bộ cồng chiêng Tây Nguyên - cồng lớn có vai trò giữ nhịp, ở bộ mã la Raglai, mã la mẹ (mẹ cả) sẽ cất tiếng đầu tiên của bài nhạc và có vai trò giữ nhịp chính, các mã la con hòa theo.
Nghệ nhân phải thuộc bài bản, biết kết hợp tay đánh (mã la đánh bằng gan bàn tay phải khi nắm lại, còn bàn tay trái điều tiết độ vang, các âm sắc, trường độ). Mỗi bài đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mã la, đòi hỏi sự truyền dạy và khổ luyện lâu dài giữa các thế hệ nghệ nhân.
Mã la thường được dùng trong các lễ hội tiêu biểu của người Raglai. Hiện các nhà nghiên cứu sưu tầm được gần 100 bài mã la, trong đó, chỉ khoảng 5-6 bài có tính chất thiêng dùng trong phần lễ, còn lại chủ yếu dùng trong phần hội.
Trước kia, mã la không chỉ là vật linh thiêng trong đời sống tinh thần của người Raglai mà còn là thước đo sự quyền quý, giàu sang. Làng nào có nhiều lễ hội, nhiều tiếng mã la vang lên chứng tỏ làng đó có cuộc sống sung túc.