Linh thiêng thần Đồng Cổ
Từ thuở Hùng Vương dựng nước và đánh giặc, thần Đồng Cổ đã nhiều lần xuất hiện để phù trợ. Mộc bản sách Đại Nam nhất thống chí, quyển 16, mặt khắc 5 mục đền miếu, tỉnh Thanh Hóa có ghi lại rằng: 'Đền thần Đồng Cổ: ở trên núi xã Đan Nê (có tên là núi Khả Lao). Xưa kia, vua Hùng Vương đi đánh giặc, đóng quân ở núi Khả Lao. Đêm nằm mơ thấy thần báo mộng, bảo với vua rằng: 'Xin cái trống đồng và dùi đồng giúp nhà vua thắng trận phen này. Đến lúc ra trận, thì thấy trên không văng vẳng có tiếng trống đồng, rồi quả nhiên vua được toàn thắng. Vua bèn sắc phong thần làm Đồng cổ Đại vương'.

Di tích lịch sử văn hóa quốc gia đền Đồng Cổ tọa lạc ở chân núi Khả Lao bên bờ sông Mã. Ảnh: Trịnh Hữu Hạnh
Thần Đồng Cổ còn nhiều lần linh ứng để phò vua giúp nước, dẹp giặc ngoại xâm. Vào năm 986, vua Lê Đại Hành đi dẹp giặc Chiêm Thành ở phương Nam, khi đến sông Ba Hòa (thuộc địa phận phường Nghi Sơn ngày nay) gặp mưa to, gió lớn, thuyền bè không đi được. Thần Đồng Cổ hiện lên báo mộng và giúp sức, nhà vua chắp tay tế lạy, trời liền quang mây, gió liền ngưng thổi. Đoàn thuyền tiếp tục Nam tiến. Thắng trận trở về, Lê Hoàn đã vào đền tạ lễ và ghi câu đối: “Long Đình hiển tích Tam Thai lĩnh/ Mã Thủy thanh lai bán nguyệt hồ”.
Đến năm 1020, Thái tử Lý Phật Mã (sau này là vua Lý Thái Tông) vâng mệnh vua cha kéo quân từ Thăng Long vào phía Nam đánh giặc Chiêm Thành, dừng chân nghỉ tại khu vực miếu thờ núi Đồng Cổ. Đêm ấy, Thái tử mơ thấy có người hiện ra khuôn mặt phong sương, râu cứng, mặc áo giáp bào, tay cầm binh khí đứng trước mặt mình và nói: “Ngài đi đánh giặc, tôi giúp một tay”. Thắng trận trở về, Thái tử đến núi Đồng Cổ sai quân dọn dẹp miếu thờ, sắm lễ tạ và xin rước linh vị về Thăng Long, Hà Nội thờ phụng để giúp dân giữ nước.
Tám năm sau, năm 1028, trước hôm vua Lý Thái Tổ qua đời một ngày (mùng 3 tháng 3 âm lịch), thần Đồng Cổ lại báo mộng rằng sắp có loạn Tam Vương. Quả nhiên, khi Lý Thái Tổ vừa băng hà, 3 hoàng tử đưa quân vào ém trong thành, toan đánh úp. Do có phòng bị, lại được các tướng Lê Phụng Hiểu, Lê Nhân Nghĩa giúp nên Thái tử đã dẹp được cuộc nổi loạn này.
Cùng với việc xây dựng đền, vua Lý Thái Tông cũng ban chiếu lập đàn treo cờ tại đền Đồng Cổ, hằng năm vào ngày 4/4 âm lịch, từ hoàng thân quốc thích đến tất cả triều thần đều tới đền, đứng trước thần vị, đọc lời thề rằng: “Làm tôi bất trung/ Làm con bất hiếu/ Thần minh tru diệt”.
Lễ hội đền Đồng Cổ trước đây được gọi là hội thề Trung Hiếu - một nghi lễ cung đình, được tổ chức với những nghi thức nghiêm ngặt và chặt chẽ. Trong hội thề, người thề trước linh vị thần Đồng Cổ là vua chúa, văn võ bá quan, đại diện cho những người điều hành đất nước.
Sau này, vua Trần Thái Tông cũng ra lệnh cho các vương hầu, quan lại phải làm lễ tuyên thệ giống như triều Lý, tuy nhiên có sửa đổi lại lời thề vừa đề cao tinh thần trung quân - ái quốc vừa khẳng định sự linh thiêng của thần Đồng Cổ: “Người làm tôi phải hết lòng trung với vua/ Người làm quan phải giữ phẩm hạnh trong trắng/ Nếu ai trái lời thề này, xin thần linh làm hại người ấy”.
Trải qua các dấu mốc lịch sử, đến đời Hồ Quý Ly, vì có vụ việc của Trần Khát Chân mà lễ minh thệ đã bị phế bỏ. Mãi năm 1434, đời nhà Lê, tướng Lê Sát mới xin với vua Lê Thái Tông cho lập đàn thờ ở trường đua, khấn cáo với thần linh trên trời dưới đất, tập hợp trăm quan văn võ trong kinh đô và ngoài các đạo, cắt tiết ngựa bạch làm lễ ăn thề. Năm đó, vua cũng tới xem. Điều này, sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã ghi khá rõ.

Lễ hội Đền Đồng Cổ làng Đan Nê hằng năm thu hút đông đảo Nhân dân và du khách đến tham quan, dâng hương, hành lễ. Ảnh: Chi Anh
Làng Đan Nê và khu vực núi Đồng Cổ không chỉ là nơi đầu mối giao thông thủy – bộ nối liền giữa đường thượng đạo từ phía Bắc vào với hệ thống kênh đào (từ Đồng Cổ đến Bà Hòa) mà còn là một thắng tích nổi tiếng. Bởi ở núi Đồng Cổ có 3 ngọn núi (Xuân, Nghễ, Đổng) như hình 3 ngôi sao nên có tên là Tam Đài (Thai); bên tả có đền thờ thần Đồng Cổ, lưng chừng núi có chùa Thanh Nguyện, phía trên có Triều Thiên quán (quán chầu Trời); phía sau là bến đò cổ, “từ xưa tập hợp thuyền buôn, cột buồm dựng đứng như cây rừng, thật là một nơi đô hội của đất Ái Châu”...
Có thể nói thần Đồng Cổ có dấu ấn sâu sắc với vương triều Lý. Việc thờ thần Đồng Cổ trở thành quốc lễ của triều Lý nói riêng và các vương triều phong kiến trong lịch sử Việt Nam nói chung.
Về ngôi đền chính thờ thần Đồng Cổ ở Đan Nê, xã Quý Lộc, tỉnh Thanh Hóa, chúng tôi được trưởng làng Đan Nê Lê Trương Vân nhắc lại lịch sử ban đầu là miếu thờ, “được khởi dựng từ thời Hùng Vương, đến thời Lý (1020) miếu được sửa sang lại, sang thời Lê - Trịnh (1630) thì xây dựng khang trang, to đẹp hơn... Miếu thờ thần núi Đồng Cổ rất hiển linh, vị thần đã giúp các triều đại đánh thắng giặc ngoại xâm và diệt trừ phản loạn”.
Để nói về sự linh thiêng của đền Đồng Cổ, sử sách xưa ghi lại rất nhiều. Bằng chứng rõ nhất là hai tấm bia trên vách đá núi Xuân, một tấm bia khắc chữ Hán do Tuyên công Nguyễn Quang Bàn (con vua Quang Trung) soạn năm 1802 ghi lại sự kiện năm Canh Tuất (1790) khi ông tìm thấy một chiếc trống đồng cổ bên bờ sông Mã; và một tấm bia bằng tiếng Pháp, khắc năm 1889, chép lại bài văn dân làng Ðan Nê tỏ lòng sùng kính với ngôi đền. Qua những bước thăng trầm của lịch sử, nhiều lần bị tàn phá bởi chiến tranh và thiên tai, song đến ngày hôm nay, ngôi đền tại làng Đan Nê, xã Quý Lộc đã được trùng tu tôn tạo, “là một di tích thiêng liêng hiển hách vào bậc nhất của tỉnh Thanh Hóa” (Tuyên công Nguyễn Quang Bàn).
Năm 2024, Lễ hội đền Đồng Cổ được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.