Libido trong lý thuyết của Carl Jung
Một chủ đề mà tôi đã quan tâm sâu sắc từ khi viết 'Biến đổi và Biểu tượng' của Libido là lý thuyết về libido.
Tôi hiểu libido như một tương đương tâm lý của năng lượng vật lý, do đó là một khái niệm có thể đo lường về mặt định lượng, vì vậy không nên được định nghĩa theo tiêu chí định tính. Ý tưởng của tôi là thoát khỏi chủ nghĩa cụ thể đang thống trị trong lý thuyết libido khi ấy - nói cách khác, tôi không còn muốn nói về các bản năng của khát khao, hung hăng và tính dục nữa, mà muốn xem tất cả các hiện tượng ấy như là những biểu hiện của năng lượng tâm lý.
Trong vật lý, ta cũng nói về năng lượng và các dạng biểu hiện khác nhau của nó, như điện, ánh sáng, nhiệt, v.v.. Thực trạng trong tâm lý học cũng giống hệt như vậy. Ở đây, chúng ta chủ yếu cũng đang làm việc với năng lượng - tức là với cường độ, với các lượng lớn hay nhỏ hơn. Nó có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức. Nếu hiểu libido như năng lượng, thì ta có thể có một cái nhìn toàn diện và thống nhất.

Minh họa: Tranh của Margo Nacai. Ảnh: Saatchiart.
Các câu hỏi định tính về bản chất của libido - liệu đó là tính dục, quyền lực, khát khao hay điều gì khác - sẽ lùi về phía sau. Điều tôi muốn làm cho tâm lý học là xây dựng một quan điểm logic và triệt để giống như lý thuyết năng lượng mà vật lý hiện đại đã làm.
Đó là điều tôi theo đuổi trong bài viết “On Psychic Energy” (Về Năng lượng Tâm lý; 1928). Ví dụ, tôi xem các xung năng của con người như những biểu hiện khác nhau của các tiến trình năng lượng, và vì thế là những lực tương tự nhiệt, ánh sáng, v.v.. Cũng giống như một nhà vật lý hiện đại không còn nghĩ đến việc quy mọi lực về nhiệt, nhà tâm lý học cũng nên tránh gộp tất cả các bản năng vào dưới cái tên “tính dục”.
Đó chính là sai lầm ban đầu của Freud, mà sau này ông đã hiệu chỉnh bằng giả định về các “bản năng của cái tôi”. Sau đó nữa, ông bổ sung thêm khái niệm “siêu ngã” (superego) và trao cho nó một vị thế gần như tối cao.
Trong bài viết “Mối quan hệ giữa cái Tôi và Vô thức”, tôi chỉ bàn đến mối bận tâm của mình với vô thức, và phần nào đó về bản chất của mối bận tâm ấy, chứ chưa thật sự nói được điều gì đáng kể về chính vô thức. Khi làm việc với các hình ảnh tưởng tượng của mình, tôi dần nhận ra vô thức trải qua - hoặc tạo ra - sự biến đổi.
Chỉ sau khi làm quen với giả kim thuật, tôi mới hiểu rằng vô thức là một quá trình, và tâm hồn được chuyển hóa hay phát triển nhờ vào mối quan hệ giữa cái tôi với các nội dung của vô thức. Trong từng trường hợp cá nhân, quá trình chuyển hóa đó có thể được đọc ra từ các giấc mơ và hình ảnh tưởng tượng. Trong đời sống tập thể, nó để lại dấu vết chủ yếu trong các hệ thống tôn giáo khác nhau và những biểu tượng thay đổi theo thời gian của chúng.
Chính nhờ nghiên cứu những quá trình chuyển hóa mang tính tập thể đó, và nhờ hiểu được biểu tượng học giả kim, mà tôi đã đạt tới khái niệm trung tâm của nền tâm lý học của mình: quá trình cá nhân hóa (individuation).





























