Lê Lợi và Nguyễn Trãi - cuộc gặp gỡ lịch sử
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bên cạnh Lê Lợi có rất nhiều hào kiệt đến từ khắp nơi. Tất cả cùng hội tụ, nằm gai nếm mật để làm nên chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn, đặt nền móng vững chắc cho triều đại nhà Lê và nền độc lập, phồn vinh của quốc gia Đại Việt.

Vĩnh lăng thần đạo bi là bài văn bia do Nguyễn Trãi kể lại thân thế và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ.
Nếu như Lê Lợi (1385-1433) tổ tiên vốn “đời đời làm quận trưởng một phương”, cá nhân ông cũng từng là phụ đạo Khả Lam (làng Cham) thì Nguyễn Trãi (1380-1442) người Thăng Long sinh ra trong gia đình có ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán, bố là tiến sĩ triều Hồ Nguyễn Phi Khanh; ông cũng từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) rồi giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng của triều Hồ.
Giặc Minh xâm lược nước ta, dù chống cự quyết liệt nhưng nhà Hồ đã bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Ngay cả ông, vì kiên quyết không theo giặc Minh mà bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long). 10 năm sống ở thành Đông Quan của Nguyễn Trãi (1407-1417) cũng là mười năm ông nhẫn nhịn để chờ thời “tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha”. Cho đến khi, nghe tin Lam Sơn tụ nghĩa, ông đã tìm cách đến Lỗi Giang gặp Lê Lợi. Thời điểm cuộc gặp gỡ này không được chép cụ thể.
Nói về cuộc gặp gỡ này, truyền thuyết dân gian có chép chuyện, đầu năm 1418, khi ngọn cờ khởi nghĩa của Lê Lợi vừa mới phất lên, thì ở vùng đất Lam Sơn người ta thấy xuất hiện những lá cây mang hàng chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”.
Qua những lá “truyền đơn” này, các bậc hào kiệt thời đó hiểu ngay là hai con người có tài, có chí lớn đã gặp nhau, cùng nhau mưu đồ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Sách Việt sử cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn) chép rõ: “Trước kia, Vương (Lê Lợi) đóng ở Lỗi Giang, Nguyễn Trãi tay cầm roi ngựa đến yết kiến, dâng sách lược dẹp giặc Ngô, được Vương khen, tiếp nhận” (NXB Giáo dục tập I, trang 803).
Tại Hội thề Lũng Nhai, dưới sự che chở của núi rừng Lam Sơn, của sông Âm, sông Chu, một cuộc hội ngộ giữa chủ tướng Lê Lợi cùng 18 nhân kiệt khác gồm Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú (tức Lưu Nhân Chú), Lê Bồi, Lê Lý (tức Nguyễn Lý), Đinh Lan, Trương Chiến, đã cùng nhau “kính đem lễ vật, sinh huyết tấu cáo cùng Hạo thiên Thượng đế, Hậu thổ Hoàng địa và các tôn linh thần bậc thượng, trung, hạ coi sông núi các xứ nước ta”.
Có thể nói với Bình Ngô sách mà Nguyễn Trãi dâng lên, Lê Lợi đã nhìn thấy những điểm người khác không có ở Nguyễn Trãi. Nội dung chủ yếu của Bình Ngô sách - bản chiến lược đánh đuổi quân Minh - không phải là đánh thành mà đánh vào lòng người (mưu phạt tâm công) được Lê Lợi khen là hiểu binh pháp mà tiếp nhận vào hàng ngũ nghĩa quân, làm Hàn lâm thừa chỉ học sĩ, soạn thảo giấy tờ cho vua, theo lệnh vua.
Cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Trãi và Lê Lợi có thể được xem là “mệnh trời” bởi sự hội ngộ này mang tính thời cơ quyết định cho sự nghiệp đánh đuổi quân Minh, là sự kết hợp giữa tài năng, trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của hai con người kiệt xuất vào đúng thời điểm lịch sử. Sự kiện này không phải là sự sắp đặt siêu nhiên, mà là kết quả của hoàn cảnh lịch sử và sự chủ động của con người.
Sau khi được thu nhận vào nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi được giao làm Thừa chỉ, vâng lệnh vua soạn thảo giấy tờ, sau được gọi là Thừa chỉ học sĩ rồi Hàn lâm thừa chỉ học sĩ.
Với tư tưởng “mưu phạt tâm công”, trong suốt những năm tháng “phụng sự” Lê Lợi, Nguyễn Trãi rất chú trọng đến việc xây dựng phẩm chất cho các tướng sĩ Lam Sơn. Theo Nguyễn Trãi: “Đạo làm tướng thì lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm cành” (Thư trả lời Phương Chính); còn binh sĩ thì không những được dạy bảo những phương pháp ngồi, đứng, tiến, lui, mà còn được “hun đúc bằng những điều nhân nghĩa, khiến ai cũng hết lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng”. Đây là vấn đề lập trường chiến đấu của nghĩa quân, một khi tướng sĩ đã có được phẩm chất như vậy thì sẽ trở thành một lực lượng vô địch: “Đem quân ấy ra đối phó với địch thì kẻ nào theo ý hướng ta sẽ sống, kẻ nào trái ý hướng ta sẽ chết” (Thư gửi Vương Thông).
Nghĩa quân Lam Sơn lớn mạnh được cũng chính là một phần nhờ sự giáo dục về ý thức đoàn kết hữu ái trong nội bộ: Giữa binh lính với binh lính, giữa binh lính với chỉ huy. Nguyễn Trãi đã nhiều lần nhắc đến một cách tự hào: “Thiết quân, rượu hòa nước, dưới trên đều một dạ cha con” (Bình Ngô đại cáo) và “nay ta dấy nghĩa quân, trên dưới một lòng” (Thư gửi Vương Thông). Tình đoàn kết còn được biểu hiện trong câu nói của Nguyễn Trãi gửi cho Vương Thông: “Quân họ Hồ trăm vạn người trăm vạn lòng, còn quân ta bất quá vài mươi vạn nhưng ai nấy một lòng”.

Nguyễn Trãi dâng lên Lê Lợi Bình Ngô sách tại căn cứ khởi nghĩa Lam Sơn. (Tranh: Hoàng Hoa Mai)
Hơn hết đó là tư tưởng thu phục lòng dân và dựa vào Nhân dân để đánh giặc. Sách “Lam Sơn thực lục” ghi lại sự ủng hộ tích cực của Nhân dân đối với nghĩa quân: “Phàm những dân ở gần thành giặc đóng, tơ hào không bị xâm phạm. Từ đó, dân cả một lộ Thanh Hóa cùng thân thuộc bạn cũ của nhà vua đều tranh nhau tới cửa trại quân xin gia nhập”.
Trải qua những năm trường kỳ kháng chiến, nếm mật nằm gai, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn cũng được chứng kiến ngày chủ tướng Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, xưng Lê Thái Tổ, đặt tên nước là Đại Việt, mở ra triều đại Hậu Lê phát triển rực rỡ kéo dài nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam: “Xã tắc từ nay vững bền/ Giang sơn từ nay đổi mới/ Càn khôn đã bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt đã mờ rồi lại trong/ Để mở nền muôn thuở thái bình/ Để rửa nỗi nghìn thu hổ thẹn”.
Khi định công ban thưởng cho các văn quan võ tướng và quần thần, Lê Lợi đã “phong thừa chỉ Nguyễn Trãi tước Quan Phục hầu... cho mang họ vua” (Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên...).
Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi gắn liền với những năm tháng phục vụ Lê Thái Tổ. Vì thế, hầu hết các tác phẩm quan trọng của ông cũng được viết trong khoảng thời gian này. Đó là “Quân trung từ mệnh tập” (lệnh, chiếu biểu thay vua viết, các thư từ gửi cho tướng giặc được soạn thảo trong giai đoạn từ năm 1423 đến 1427; Bình Ngô đại cáo (1428), Lam Sơn thực lục (1432)...
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, có những mối quan hệ quân - thần khăng khít như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn và Đinh Tiên Hoàng; Trần Hưng Đạo và các vua triều Trần, Nguyễn Trãi và Lê Lợi... Dưới trướng một quân vương như Lê Lợi - Thái tổ Cao hoàng đế, Nguyễn Trãi đã thể hiện vai trò của một văn thần trung quân, ái quốc, và nhân nghĩa... Để rồi 22 năm sau vụ án Lệ Chi Viên và tội phải “tru di tam tộc”, vua Lê Thánh Tông đã ra chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi cùng lời ca ngợi: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (tấm lòng Ức Trai (Nguyễn Trãi) trong sáng như sao khuê buổi sớm mai).
Bài viết sử dụng tư liệu trong sách: Vương triều Tiền Lê - Hậu Lê (Lê Xuân Kỳ, NXB Thanh Hóa, 2014); Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn trong tâm thức dân gian (NXB Thanh Hóa, 2016); và nghiên cứu “Công thần Nguyễn Trãi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn: (Lê Thị Dịu)...
































