Lãnh đạo trường ĐH hiến kế để thu hút đội ngũ trí thức STEM ở nước ngoài
Việc giao các trường bổ nhiệm chức danh GS, PGS với đội ngũ trí thức ở nước ngoài theo cơ chế đặc cách là cần thiết, tuy nhiên vẫn phải có quy định rõ ràng.
.t1 { text-align: justify; }
Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 1002/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, định hướng tới năm 2045.
Trong đó, đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Ít nhất 2.000 người có trình độ tiến sĩ các ngành STEM đang làm việc ở nước ngoài được tuyển dụng làm giảng viên đại học trong nước hoặc có hợp đồng giảng dạy ít nhất một học kỳ tại cơ sở giáo dục đại học.
Lãnh đạo một số cơ sở giáo dục về STEM đã nêu lên thực tế trong vấn đề tuyển dụng, thu hút giảng viên ở nước ngoài hiện nay cũng như đưa ra ý kiến đề xuất để tháo gỡ vướng mắc.
Thủ tục hành chính phức tạp gây khó trong việc thu hút giảng viên
Đánh giá về thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút giảng viên có trình độ tiến sĩ các ngành STEM ở nước ngoài về Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) cho biết:
Việc chiêu mộ các tiến sĩ STEM từ nước ngoài về công tác tại Việt Nam có cả những cơ hội và thách thức.
Về mặt thuận lợi, giảng viên quốc tế mang theo kiến thức, kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu tiên tiến, giúp sinh viên tiếp cận với chuẩn quốc tế, mở ra những hướng nghiên cứu mới, đột phá. Đội ngũ này cũng sẽ là cầu nối vững chắc giữa các cơ sở giáo dục trong nước với môi trường học thuật quốc tế; cơ sở thuận lợi để kết nối cộng đồng nghiên cứu ở các trường đại học Việt Nam với các dự án quốc tế, mở ra cơ hội lớn hơn cho các nhà khoa học trẻ, tiềm năng trong nước.
Từ đó, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, vị thế học thuật, uy tín của giáo dục Việt Nam trên bản đồ giáo dục toàn cầu.
Các cơ chế chính sách mới của Đảng, Nhà nước về đổi mới, sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số... cũng tạo điều kiện rộng mở trong thu hút các nhà khoa học có trình độ cao ở các nước trên thế giới về Việt Nam công tác.
Hơn nữa, Việt Nam là đất nước đang phát triển, chi phí cuộc sống không quá cao, mức độ cạnh tranh vừa phải, cơ hội phát triển còn nhiều dư địa, phù hợp với các nhà khoa học trẻ.
Yếu tố văn hóa, con người Việt Nam cũng là một trong những điểm cộng đáng kể trong thu hút nguồn nhân lực từ nước ngoài về Việt Nam sinh sống và làm việc, nhất là đối với cộng đồng khoa học Việt Nam ở nước ngoài.
Mặc dù vậy, việc thu hút đội ngũ giảng viên STEM ở nước ngoài về Việt Nam công tác cũng đối mặt với nhiều thách thức. Trong đó, chênh lệch thu nhập và đãi ngộ là rào cản lớn nhất. Mức lương và các phúc lợi ở Việt Nam thường chưa thể cạnh tranh được với các quốc gia phát triển - nơi tiến sĩ STEM được trả lương rất cao.
So với các phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu hiện đại ở nước ngoài, cơ sở vật chất và trang thiết bị tại nhiều trường đại học Việt Nam còn hạn chế, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các nghiên cứu đỉnh cao.
Thủ tục hành chính và pháp lý như các quy định về visa, giấy phép lao động, cư trú và các thủ tục hành chính khác có thể phức tạp và mất nhiều thời gian, dễ gây nản lòng cho giảng viên quốc tế. Sự khác biệt về văn hóa, lối sống và rào cản ngôn ngữ có thể gây khó khăn trong việc hòa nhập, đặc biệt với những người chưa có kinh nghiệm sống ở Việt Nam.
Cơ hội giáo dục cho con cái, việc làm cho vợ/chồng cũng là những yếu tố quan trọng mà ứng viên quốc tế thường quan tâm. Việc tiếp cận và truyền thông về các cơ hội làm việc tại Việt Nam tới cộng đồng khoa học quốc tế còn chưa thực sự mạnh mẽ và hiệu quả.
Theo thầy Hiếu, để thu hút mạnh mẽ giảng viên STEM trình độ tiến sĩ từ nước ngoài, cần có những chính sách thực sự đột phá và linh hoạt, trong đó chú trọng 2 vấn đề:
Thứ nhất, cần đảm bảo cho các giảng viên có năng lực, trình độ, học hàm, học vị uy tín về công tác ở Việt Nam có mức lương cạnh tranh, thu nhập đảm bảo đời sống cho cá nhân và gia đình khi về Việt Nam; hỗ trợ ban đầu về nhà ở, pháp lý, phương tiện di chuyển... trong giai đoạn đầu về Việt Nam; có chế độ phúc lợi, khen thưởng và khuyến khích nghiên cứu tương xứng với những công sức họ bỏ ra.
Thứ hai, cần áp dụng cơ chế linh hoạt, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ thu hút này (đơn giản hóa thủ tục hành chính); tạo môi trường làm việc và nghiên cứu (đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ nghiên cứu, đảm bảo quyền tự do học thuật, khuyến khích sự đổi mới và sáng tạo trong nghiên cứu và giảng dạy); có chính sách ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng). Ảnh: Website nhà trường
Cùng bàn luận về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như - Hiệu trưởng Trường Khoa học máy tính (Đại học Duy Tân) bày tỏ, việc thu hút giảng viên có trình độ tiến sĩ các ngành STEM đang làm việc ở nước ngoài về công tác tại các cơ sở giáo dục Việt Nam mang ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trước tiên, các giảng viên này là những người đã được đào tạo và làm việc trong môi trường nghiên học thuật quốc tế chuyên nghiệp, sở hữu những kiến thức cập nhật, kỹ năng nghiên cứu tiên tiến và mạng lưới hợp tác toàn cầu. Sự hiện diện của họ tại Việt Nam không chỉ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, mà còn là yếu tố quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ và hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học nước nhà.
Thầy Như cho biết: "Tại Đại học Duy Tân, chúng tôi đã chủ động triển khai các chương trình thu hút các tiến sĩ (cả người ngước ngoài và người Việt được đào tạo ở nước ngoài) về công tác. Hiện nay, Đại học Duy Tân có gần 70 người nước ngoài đang công tác chính thức toàn thời gian (có giấy phép lao động).
Sự góp mặt của đội ngũ này đã mang lại những tác động tích cực rõ nét như nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, đưa vào những kiến thức và kỹ năng mới trên thế giới, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, nâng cao đáng kể năng lực hội nhập quốc tế cho sinh viên và đội ngũ cán bộ giảng viên của trường".
Dưới góc nhìn của thầy Như, quá trình thu hút giảng viên trình độ cao từ nước ngoài cũng đối mặt với những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Sự phát triển mạnh mẽ của các trường đại học trong nước, cùng với nhiều Nghị quyết, chính sách của Trung ương liên quan đến khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực STEM đang tạo ra một hệ sinh thái thuận lợi để các nhà khoa học về nước làm việc và cống hiến. Các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài cũng rất có tâm huyết, mong muốn đóng góp cho quê hương.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại những vướng mắc như thủ tục hành chính phức tạp trong việc cấp phép lao động cho các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài, khoảng cách lớn về mức thu nhập so với các quốc gia khác, điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ nghiên cứu còn hạn chế.
Để thu hút hiệu quả các tiến sĩ từ nước ngoài, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như đề xuất, Nhà nước cần có các chính sách cạnh tranh mạnh mẽ, bao gồm miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, hỗ trợ nhà ở, cung cấp điều kiện làm việc tiêu chuẩn quốc tế, hỗ trợ chi phí đi lại và sinh hoạt cho gia đình của họ khi về nước công tác.
Các trường đại học cũng cần có quyền tự chủ cao hơn để linh hoạt trong việc tuyển dụng và tạo điều kiện thuận lợi nhất để các giảng viên nước ngoài yên tâm cống hiến và đóng góp lâu dài cho giáo dục Việt Nam.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như - Hiệu trưởng Trường Khoa học máy tính (Đại học Duy Tân). Ảnh: NVCC.
Xem xét chế độ đặc cách trong bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư
Một trong số các giải pháp được nêu ra trong Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, định hướng tới năm 2045 là Sửa đổi, hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn, quy trình công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; tăng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học trong thu hút, tuyển dụng giảng viên xuất sắc vào các vị trí quản lý học thuật, gắn với bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hiếu chỉ ra: "Việc công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều cải tiến đáng kể. Quy trình này ngày càng chặt chẽ, đảm bảo tính công khai, minh bạch và công bằng với xã hội.
Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền học thuật vững mạnh và công bằng tại Việt Nam, nhưng đối với đội ngũ nhà khoa học uy tín, có năng lực, trình độ cao trong lĩnh vực STEM mà chúng ta cần thu hút thì quy trình này có vẻ khá phức tạp và không phù hợp với họ.
Chúng ta cần có chính sách đặc cách, để có thể tuyển dụng, bổ nhiệm nhanh, tránh rườm rà, đồng thời tăng tính cạnh tranh với các nước khác trong thu hút nguồn lực trí thức. Thủ tục nhanh gọn cũng sẽ góp phần thể hiện sự tôn trọng đối với đội ngũ trí thức, củng cố niềm tin, tạo sự thoải mái để họ an tâm nghiên cứu, công hiến ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cần nghiên cứu đặc cách như thế nào là phù hợp, tránh việc thu hút ồ ạt, tràn lan, không đảm bảo chất lượng. Việc giao các cơ sở giáo dục đại học trong bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư đối với đội ngũ trí thức từ nước ngoài theo cơ chế đặc cách là cần thiết nhưng phải có quy định rõ ràng.
Cơ quan quản lý, Hội đồng Giáo sư Nhà nước cần có chế tài thanh tra, kiểm tra, kiểm soát công tác bổ nhiệm. Nếu đơn vị nào bổ nhiệm không đúng, gian lận phải có hình thức xử phạt, hoặc hạn chế quyền hạn của trường đối với công tác này. Các trường có được cơ chế bổ nhiệm đặc cách cũng phải đáp ứng đủ tiêu chuẩn, có phương án đảm bảo chất lượng và chiến lược phát triển rõ ràng.
Đội ngũ giáo sư, phó giáo sư được bổ nhiệm theo cơ chế đặc cách trong thời gian hạn định phải có các sản phẩm công bố hoặc các công trình, dự án, hợp tác với nhà trường. Sau hạn định trên, nếu không đạt sẽ không được tiếp tục bổ nhiệm và không được hưởng các chính sách ưu tiên".
Chia sẻ thêm về vị trí quản lý học thuật trong cơ sở giáo dục, thầy Hiếu bày tỏ: "Hiện nay, tại các trường đại học Việt Nam, vị trí quản lý học thuật như trưởng khoa, trưởng bộ môn và giám đốc chương trình đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, nhưng vai trò này thường có những đặc điểm riêng biệt so với mô hình quản lý học thuật ở các nước phát triển.
Họ là cầu nối giữa ban giám hiệu và đội ngũ giảng viên, sinh viên; trực tiếp triển khai các chính sách, định hướng của trường; lắng nghe và phản ánh những vướng mắc, đề xuất từ cơ sở.
Theo nhìn nhận, đội ngũ này phải gánh trên vai nhiều nhiệm vụ hành chính; quyền tự chủ hạn chế trong nhiều vấn đề như tổ chức bộ máy, bổ nhiệm, định hướng, nghiên cứu khoa học...; và phần lớn các trưởng khoa, trưởng bộ môn vẫn phải tiếp tục công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học song song với nhiệm vụ quản lý.
Điều này đòi hỏi họ phải có năng lực đa nhiệm và quản lý thời gian hiệu quả, nhưng cũng dễ dẫn đến quá tải, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến tổng thể chương trình đào tạo, chất lượng giảng dạy, định hướng phát triển của đơn vị.
Để các vị trí này phát huy tối đa vai trò thực chất trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu, cần có sự thay đổi trong tư duy quản lý, trao quyền tự chủ lớn hơn, giảm bớt gánh nặng hành chính, và có cơ chế đánh giá, khuyến khích phù hợp.
Việc thu hút và bổ nhiệm các giảng viên xuất sắc vào các vị trí này là cần thiết, nhưng phải đi kèm với môi trường làm việc tạo điều kiện để họ thực sự phát huy năng lực lãnh đạo và tầm ảnh hưởng học thuật của mình.
Trong bối cảnh hiện nay, việc các giảng viên xuất sắc từ nước ngoài về tham gia vào công tác quản lý là rất khó. Trong đó, rào cản lớn nhất là hệ thống hành chính, quản trị của Việt Nam và nước ngoài hoàn toàn khác nhau, luật pháp, quy định tài chính...".

Ảnh minh họa: Website Đại học Đà Nẵng
Theo quan điểm của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như, các vị trí như trưởng khoa, trưởng bộ môn, giám đốc chương trình… đóng vai trò then chốt trong việc hoạch định chiến lược phát triển học thuật, đảm bảo chất lượng đào tạo, xây dựng đội ngũ, phát triển chương trình và kết nối nghiên cứu của trường đại học.
Đây là những vị trí không chỉ mang tính quản lý hành chính mà còn là trung tâm định hướng học thuật, có ảnh hưởng trực tiếp đến định vị và thương hiệu học thuật của một trường đại học.
Trong thực tế, không nhiều giảng viên xuất sắc từ nước ngoài về nước tham gia vào bộ máy quản lý học thuật. Vướng mắc lớn nhất chính là cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm chưa thực sự cởi mở, vẫn nặng về thâm niên, hành chính hóa và thiếu các tiêu chí đánh giá năng lực chuyên môn, nghiên cứu, quản lý theo chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, một số chuyên gia có tâm lý ngần ngại vì lo lắng áp lực hành chính, sự khác biệt trong văn hóa tổ chức và thiếu các cơ chế bảo vệ quyền tự chủ học thuật.
Để thúc đẩy sự tham gia của giảng viên xuất sắc vào bộ máy quản lý học thuật, thầy Như bày tỏ: "Các cơ sở giáo dục đại học cần thiết lập một khung đánh giá và bổ nhiệm minh bạch, dựa trên năng lực thực chất và thành tích khoa học.
Cần giảm thiểu các rào cản hành chính, nâng cao quyền tự chủ học thuật, tạo cơ chế khuyến khích bằng tài chính, môi trường làm việc, cam kết bảo vệ sự độc lập học thuật của các nhà khoa học khi đảm nhận vai trò lãnh đạo chuyên môn.
Việc phát triển một thế hệ lãnh đạo học thuật chất lượng cao là điều kiện tiên quyết để nâng cao vị thế của cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trong khu vực và quốc tế".
Ngoài ra, Đề án định hướng tới năm 2045 đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, nghiên cứu các ngành STEM được tăng cường đầu tư, phát triển đạt tiêu chuẩn ngang tầm với các nước tiên tiến.
Để thực hiện mục tiêu này, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) đưa ra một số đề xuất, kiến nghị về cơ chế, chính sách như:
Đầu tư dài hạn cho đội ngũ giảng viên STEM, có cơ chế thu hút nhân tài rõ ràng và đột phá, tập trung xây dựng môi trường làm việc học thuật tốt, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và đặc trưng Việt Nam; có chính sách đãi ngộ toàn diện và hấp dẫn; thay đổi cách đánh giá trong đó đặc biệt chú ý đánh giá và phát triển dựa trên năng lực và hiệu suất đóng góp.
Đầu tư mạnh cho các chương trình đào tạo tiến sĩ trong nước đạt chuẩn quốc tế, tăng cường học bổng toàn phần cho giảng viên đi học ở các trường đại học hàng đầu thế giới; tăng cường tổ chức hội thảo, giao lưu học thuật với các đơn vị nghiên cứu, đào tạo mạnh.
Cơ chế, chính sách đầu tư dài hạn cho hạ tầng nghiên cứu STEM, đầu tư chiến lược vào các phòng thí nghiệm trọng điểm; xây dựng Quỹ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ổn định và đủ lớn đảm bảo tài trợ cho các nghiên cứu trọng điểm, công nghệ nguồn, công nghệ lõi.
Xây dựng hệ sinh thái nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, tập trung nguồn lực để xây dựng một số trung tâm nghiên cứu xuất sắc trong các lĩnh vực STEM mũi nhọn, có khả năng thu hút các nhà khoa học hàng đầu và tạo ra các sản phẩm nghiên cứu tầm cỡ quốc tế.