Làm báo ở chiến trường Lào
Xã hội càng phát triển, nhu cầu được thông tin của con người càng đòi nhiều hơn, cao hơn, kịp thời hơn. Đặc biệt thời kỳ đất nước có chiến tranh, báo chí, phát thanh được Đảng và Nhà nước coi là vũ khí sắc bén trong đấu tranh, đập tan âm mưu của kẻ thù, cổ vũ động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết đánh bại kẻ thù xâm lược và bọn tay sai phản động.
Ngày tôi xách túi quần áo đi về nhập Trường Trung cấp Sư phạm, bố tôi bảo: “Con cố gắng học cho tốt, sau về dạy học, dạy các em”. Tôi hiểu, sau tôi còn sáu đứa em, bố mẹ già, tôi là lớn nhất, đồng thời cũng là trách nhiệm. Tôi yên tâm đi học, nhưng rồi như lời các cụ dạy “người tính không bằng trời tính”, ra trường cầm bằng tốt nghiệp loại giỏi, tôi được gọi nhập ngũ quân đội. Ngày đó tôi nghĩ ba năm nghĩa vụ về làm thầy giáo càng vững. Nhưng rồi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lan ra cả nước, chế độ nghĩa vụ quân sự bãi bỏ. Lính chỉ biết yên tâm vững bước đi đến ngày toàn thắng.

Bộ Chỉ huy Quân giải phóng Lào và chuyên gia quân sự Việt Nam bàn kế hoạch tác chiến trong chiến dịch cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972. Ảnh tư liệu TTXVN.
Những năm tháng chiến tranh ác liệt, bộ đội ở chiến trường không chỉ thiếu ăn, thiếu mặc, còn thiếu thông tin. Cả đại đội được cấp trên phát cái đài Oriong tông, do chính trị viên giữ, quản lý, lính ít khi có dịp tập trung nghe đài. Mọi thông tin chỉ do chính trị viên ghi lại qua giờ đọc chậm của Đài, phổ biến cho anh em. Báo Nhân Dân và Quân đội nhân dân chuyển đến tay chiến sĩ nhanh cũng một tháng, có khi hàng quý thư báo mới có một đợt. Từ nhu cầu thông tin của cán bộ, chiến sĩ ở chiến trường, từ cuối những năm sáu mươi, Tổng cục Chính trị cho phép các Bộ Tư lệnh, các mặt trận được ra một tờ báo thay cho các bản tin.
Bộ Tư lệnh quân tình nguyện chiến đấu giúp bạn Lào ngày đó được phép ra tờ báo “Chiến sĩ miền Tây”. Sự ra đời của tờ báo đã làm cuộc đời tôi rẽ sang bước ngoặt. Từ đơn vị chiến đấu, tôi nhận quyết định về Cục Chính trị. Ngay buổi gặp đầu tiên, đồng chí Đại tá Lê Linh, Phó Chính ủy, Chủ nhiệm Cục Chính trị giao nhiệm vụ cho tôi xuống đơn vị tân binh bổ sung cho mặt trận tuyển 10 chiến sĩ có trình độ văn hóa, đưa ra Hà Nội học in báo, và tôi đến Báo Quân đội nhân dân học tổ chức tòa soạn, xây dựng xưởng in tại chiến trường để xuất bản báo “Chiến sĩ miền Tây”. Nhận nhiệm vụ tôi lo quá, thủ trưởng giao trong 6 tháng phải ra được số báo đầu tiên. Từ bé đến lớn tôi chỉ biết đọc báo, còn làm ra tờ báo, tôi đâu biết.
Báo “Chiến sĩ miền Tây” tồn tại không dài, nhưng đã đóng góp phần nhỏ bé cùng quân tình nguyện Việt Nam, giúp Lào, cùng bạn bảo vệ cho đường Hồ Chí Minh thông suốt cho đến ngày chiến thắng 30/4/1975, thống nhất đất nước.
Tuyển đủ quân số, tôi đưa anh em ra Hà Nội, gặp lãnh đạo Nhà máy in quân đội, được Ban Giám đốc thông cảm cử chuyên gia giúp xây dựng kế hoạch đào tạo thợ, lập dự án nhà in ở chiến trường. Vào làm việc với Phòng Quản lý xuất bản, Tổng cục Chính trị, tôi được các đồng chí giúp đỡ tận tình và trở lại Báo Quân đội nhân dân học quy trình từ: Tòa soạn đến khâu in và phát hành. Khâu cuối cùng là mua máy, chữ chì và một số phụ kiện, theo dự trù, đại diện tài chính của Bộ Tư lệnh giao cho tôi 6.000 đồng, tôi đựng đầy cặp bảo mật. Sau 3 tháng học tập và chuẩn bị máy, chữ chì và các phương tiện, xưởng in hoàn thành và bắt đầu hành quân vào chiến trường.
Khi còn ở trên đất ta, chúng tôi được đi ô tô, đến biên giới máy tháo rời, bốn thợ máy chia nhau mang vác. Tổ chữ có 6 người đeo ba lô phía trước lưng đeo hộp chữ 25 kg. Số hộp chữ còn lại và giấy mực in được 10 dân công vận chuyển đi cùng. Dù vất vả gian khổ, khó khăn nhưng đúng 5 tháng, số báo “Chiến sĩ miền Tây” đầu tiên đã ra đời đưa đến tay cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận. Lúc ấy anh Hoàng Tổng làm Tổng Biên tập, phóng viên có anh Phạm Đình Trọng, bút danh Khánh Tường, anh Trọng Thụy và tôi vừa làm trực tin tòa soạn vừa phụ trách in. Nhà in ở cùng Cục Chính trị trong hang, làm việc bằng đèn dầu, hết buổi làm việc ra cửa hang mặt mũi ai cũng nhọ nhem.
Ngày ấy, gọi tòa soạn báo cho có tên trong danh bạ điện thoại quân sự, còn thực chất chỉ có 4 người: Tổng Biên tập, hai phóng viên chính, còn tôi tập sự phóng viên kiêm phụ trách xuất bản, báo ra một tuần một số 4 trang, bằng khổ Báo Bắc Giang bây giờ. Nhưng vào chiến dịch mùa khô, có khi báo ra tuần hai kỳ đáp ứng sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh. Có lần báo ra 2 trang đột xuất, trang một có xã luận, một vài tin thời sự chiến thắng của các chiến trường, trang 2 in toàn văn khẩu hiệu tư tưởng chỉ đạo chiến dịch, động viên cán bộ, chiến sĩ quyết chiến, quyết thắng. Tờ báo được quân bưu chuyển đến ngay đơn vị trước giờ nổ súng.
Là tờ báo của quân tình nguyện làm nhiệm vụ quốc tế ở chiến trường Lào, tờ báo còn nêu tấm gương phối hợp chiến đấu của bộ đội Việt Nam với quân giải phóng Lào, biểu dương tinh thần đoàn kết của bộ đội Việt Nam và quân dân các bộ tộc Lào trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai, giải phóng nước Lào anh em. Báo “Chiến sĩ miền Tây” ra đời đúng thời kỳ chiến tranh ác liệt ở Lào. Báo đã cùng đội quân tình nguyện đi tới ngày cách mạng nước Lào thắng lợi hoàn toàn.