Kỳ vọng giảm thừa cân béo phì và câu chuyện áp thuế mặt hàng nước giải khát có đường, liệu đã 'đúng và trúng'?
Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua sáng 14/6, theo chương trình nghị sự. Một trong những nội dung còn ý kiến khác nhau trong dự án luật là việc đưa nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên, vấn đề này cũng đang gây nhiều tranh cãi.
Chính phủ dự kiến áp dụng mức thuế 8% với mặt hàng này từ năm 2027 và 10% từ năm 2028. Đây cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm của dư luận và nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Thậm chí có ý kiến cho rằng, điều này chưa đủ sức thuyết phục. Và một trong những lý lẽ được đưa ra là, không có đủ bằng chứng khoa học cho thấy nước giải khát là nguyên nhân trực tiếp gây thừa cân béo phì.
Nhiều nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì
Mặc dù Việt Nam có tốc độ tăng nhanh về số người béo phì trong thời gian gần đây nhưng xét về tỷ lệ dân số thì số người thừa cân béo phì ở Việt Nam vẫn thấp nhất so với khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Theo số liệu từ Liên đoàn béo phì thế giới năm 2022, tỷ lệ thừa cân béo phì người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 200 và Trẻ em đứng thứ 137. Tại khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ thừa cân béo phì ở người trưởng thành tại Việt Nam, đứng thứ 11, trẻ em đứng thứ 8. Số liệu này cho thấy, tỷ lệ thừa cân béo phì tại Việt Nam chưa cao, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn cao.
Theo các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế tại Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 đã chỉ ra rằng thừa cân béo phì do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm: chế độ dinh dưỡng không hợp lý, không chỉ đên từ việc tiêu thụ các thực phẩm giàu năng lượng bao gồm các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đường, muối và không đủ chất xơ; thiếu hoạt động thể chất, lười vận động; các nguyên nhân di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa thừa cân béo phì với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống làm việc, thời gian ngủ ...

Ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại có đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng thừa cân béo phì ở lứa tuổi học đường. (Nguồn: Báo Sức khỏe và Đời sống)
Các khảo sát thực tiễn đối với lứa tuổi học đường tại Việt Nam cho thấy không có mối tương quan giữa việc tăng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt với tăng tỷ lệ thừa cân béo phì. Cụ thể, Báo cáo của Viện Dinh dưỡng quốc gia về tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần ăn, tần suất và thói quen sử dụng thực phẩm của học sinh tiến hành năm 2018 cho thấy tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).
Trong khi đó, ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại có đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng thừa cân béo phì ở lứa tuổi học đường. Cũng theo Báo cáo của Viện Dinh dưỡng nêu trên, trẻ em khu vực thành thị có tỷ lệ thừa cân béo phì cao hơn trẻ em khu vực nông thôn thì cũng là nhóm có hoạt động thể lực ít hơn trẻ em khu vực nông thôn.
Thời gian tĩnh tại trong ngày của lứa tuổi học sinh chủ yếu là dành cho mạng xã hội (95,9%); game, máy tính, điện thoại (76,3%); làm máy tính (60,2%).
Các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì mà đồ uống có đường không phải là nguyên nhân chính. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung cũng chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác là (22%).
PGS-TS.BS. Nguyễn Thị Lâm, nguyên Phó viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia cho biết, những lý do chính gây ra thừa cân béo phì bao gồm chế độ dinh dưỡng không hợp lý (tiêu thụ nhiều thực phẩm có hàm lượng calo cao), thiếu vận động thể chất, do di truyền hoặc nội tiết...
Một báo cáo của Viện Dinh dưỡng cũng đã chỉ ra rằng, tại Việt Nam, tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%), nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn mức tiêu thụ của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%). Với những lý do đó, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát không đảm bảo giải quyết được các bệnh không lây nhiễm, bao gồm thừa cân béo phì.
Một số kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát có đường không hiệu quả đối với mục tiêu ngăn ngừa và giảm thừa cân béo phì, thậm chí có thể gây ra những tác động không mong muốn hoặc phản tác dụng. Thực tiễn một số nước, sau một thời gian áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát có đường lại có tỷ lệ thừa cân béo phì không giảm mà lại tăng qua các năm.
Như Chile có thời điểm áp dụng vào năm 2014, giai đoạn 2009 - 2010, tỷ lệ béo phì ở nam và nữ giới lần lượt là 19,2% và 30,7%. Sau khi áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt, đến giai đoạn 2016 - 2017, tỷ lệ béo phì ở cả nam và nữ giới Chile đều tăng, lần lượt là 30,3% và 38,4%. Một số quốc gia châu Âu như Bỉáp dụng năm 2016, năm 2014, tỷ lệ béo phì ở nam giới nước này là 13,9% còn ở nữ giới là 14,2%, nhưng đến năm 2019, tỷ lệ này ở nam giới là 17,2% và nữ giới là 15,6%.
Một số nước đã phải từ bỏ công cụ này sau một thời gian áp dụng vì không có tác động đáng kể lên việc cải thiện sức khỏe cộng đồng. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cho đến nay, Đan Mạch và Na Uy đã bãi bỏ sắc thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng với nước giải khát có đường. Chính phủ tuyên bố bãi bỏ thuế này nhằm tạo việc làm và giúp đỡ nền kinh tế địa phương. Nhật Bản không áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát, nhưng lại là quốc gia có tỷ lệ thừa cân, béo phì thấp nhất trong khu vực và trên thế giới. Thông qua hai bộ luật có tên gọi là Shuku Iku và Metabo, Nhật Bản tập trung vào chính sách giáo dục dinh dưỡng và tăng cường vận động.
Tạo gánh nặng cho doanh nghiệp
Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nay là Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược(Bộ Tài chính)về tác động kinh tế - xã hội của thuế tiêu thụ đặc biệt, nếu bổ sung nước giải khát có đường vào diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, với mức thuế suất 10%, nền kinh tế sẽ phải gánh chịu thiệt hại lên tới 880,4 tỷ đồng.
Cụ thể, theo nghiên cứu này, mặc dù việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt từ 0% lên 10% sẽ góp phần làm tăng thu ngân sách trên 2.279 tỷ đồng, nhưng những ảnh hưởng do việc sụt giảm sản lượng lại lên tới hơn 3.159 tỷ đồng, và do đó, tổng thể sẽ làm thiệt hại khoảng 880,4 tỷ đồng. Các chuyên gia của CIEM cho rằng, việc mở rộng đối tượng chịu thuế và tăng thuế, trong đó có thuế tiêu thụ đặc biệt, sẽ tạo gánh nặng và thậm chí có thể làm kiệt quệ hơn sự khó khăn của doanh trong bối cảnh hiện nay.
Nghiên cứu của CIEM cũng cho thấy, các chỉ số kinh tế đều có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi quy định này, bao gồm tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế, thu nhập người lao động, thặng dư sản xuất, số lượng lao động…
“Bất kỳ chính sách nào cũng có tác động tới kinh tế - xã hội nhất định, do đó, cần phải đánh giá đầy đủ các tác động chính sách. Công cụ chính sách không nên tạo thêm gánh nặng cho nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân”, bà Nguyễn Minh Thảo, chuyên gia của CIEM nói.
Chia sẻ tại một Hội thảo về các bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam mới đây, ông Nguyễn Văn Phụng, Ủy viên Thường vụ Ban chấp hành Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam cho rằng, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát không giúp đạt mục tiêu tăng ngân sách quốc gia, mà ngược lại gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngành nước giải khát, các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan như ngành mía đường, bán lẻ, bao bì, và hậu cần.
Theo ông Phụng, các doanh nghiệp hiện đang phải gánh chịu cùng lúc rất nhiều loại thuế và chi phí, như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, phí tái chế, xử lý chất thải, các loại chi phí để thực hiện các trách nhiệm kiểm kê khí nhà kính, phí đối với khí thải, phí nước thải (đang chuẩn bị bổ sung).

Việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát, gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngành nước giải khát, các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan. (Nguồn: Báo Quân đội Nhân dân)
“Các loại chi phí này sẽ làm tăng thêm gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp còn đang vật lộn với quá trình phục hồi sau đại dịch và sự khó khăn chung của kinh tế toàn cầu”, ông Phụng nói.
Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban Quan hệ Doanh nghiệp và pháp chế cho rằng, các chính sách thuế cần lưu ý các hiệu quả tổng thể. Qua ý kiến các chuyên gia rõ ràng, mục tiêu chính là giảm tình trạng thừa cân béo phì thì không xác định được nước giải khát có đường là nguyên nhân chính, chủ yếu, duy nhất. Không có số liệu, kết luận nào về mối quan hệ giữa người bị bệnh thừa cân béo phì với việc sử dụng nước giải khát có đường.
“Khi ban hành chính sách này sẽ dẫn đến tăng giá. Giá mặt hàng nhạy cảm, chẳng hạn như mặt hàng nước giải khát, sẽ làm xáo trộn hành vi của người tiêu dùng, tác động đến cả chuỗi lợi ích liên quan như nông dân trồng trà, logistics, xây dựng... Nếu chưa có có căn cứ, chưa rõ thì chưa thông qua”, ông Hưng cho hay.
Ông Hưng cho rằng, doanh nghiệp mới phục hồi sau Covid-19, giữa bối cảnh mục tiêu tăng trưởng mới, những khó khăn từ chính sách thuế quan của Tổng thống Trump, Việt Nam cần tập trung giải quyết khó khăn từ bên ngoài. “Nhưng khó khăn mà có thể do thay đổi Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là của chính chúng ta có thể tự giải quyết, cân nhắc chưa nên thông qua để gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp”, ông nói.
Ông Bùi Khánh Nguyên, Phó Tổng giám đốc Đối ngoại truyền thông và Phát triển bền vững, Công ty TNHH Nước giải khát Coca-Cola Việt Nam đề xuất, chính sách cần dựa trên sự công bằng theo hai tiêu chí: Thứ nhất, chính sách thuế phải dựa trên cơ sở khoa học. Cần lưu ý nghiên cứu về mối quan hệ nhân quả, nhóm sử dụng và nhóm đối chứng. Cần có thêm nghiên cứu quy mô lớn hơn, độ tin cậy cao hơn. Thứ hai, Nếu đánh thuế thì cần áp dụng toàn diện, không nên chỉ nhắm vào một sản phẩm mà bỏ qua các sản phẩm có đường khác.