Ký ức khó quên của cựu binh tàu không số

Ở tuổi 93 nhưng với ông, ký ức về đoàn tàu không số trong những tháng năm chiến tranh ác liệt vẫn còn nguyên vẹn

Trong đó, có những ký ức về bác sĩ - liệt sĩ - Anh hùng Lực lượng vũ trang Đặng Thùy Trâm.

Về thành phố biển Nha Trang trong cái nắng hè chói chang, tôi cùng người bạn tìm đến Hội Cựu chiến binh phường Vĩnh Hải để hỏi thăm cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn. Nhiều người ở đây có cùng nhận xét: "Chú ấy cừ lắm. Bây giờ vẫn sôi nổi, nhiệt tình".

Hành trình dài về đời lính

Theo hướng dẫn của các cựu chiến binh, chúng tôi vòng qua đường Đặng Tất, tìm đến nhà cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn.

Căn nhà nhỏ nằm sâu trong hẻm nhỏ, tách biệt với phố xá xôn xao. Phòng khách có bộ sa-lông gỗ cũ, trên tường treo những tấm huân chương, huy chương. Tấm bằng công nhận của UBND tỉnh Quảng Ngãi năm 2017 về Di tích lịch sử cấp tỉnh dành cho tàu không số cập biển Quy Thiện, xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ được treo ở vị trí trang trọng.

Biết tôi từ Quảng Ngãi vào, ông vui lắm, hỏi nhiều thông tin về vùng biển Sa Kỳ và vùng biển Quy Thiện - nơi những tháng ngày kháng chiến có dấu chân ông cùng đồng đội. Ông mở cuốn nhật ký cho tôi xem một hành trình dài về đời lính, một thời trai trẻ như sống lại.

Cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn trong ngôi nhà nhỏ ở TP Nha Trang

Cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn trong ngôi nhà nhỏ ở TP Nha Trang

Cuối năm 1946, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ông tình nguyện vào bộ đội và đã được biên chế vào Đại đội 484, Tiểu đoàn 49, Trung đoàn 673.

Đơn vị ông đã vượt núi, băng sông làm nhiệm vụ quốc tế ở vùng Nam Lào, nhất là khi cấp trên có chủ trương đánh địch ở nhiều vùng chiến trường trong cả nước để phân tán địch rồi tập trung những đơn vị quân tiên phong tiến đánh ở Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ và anh dũng.

Kháng chiến thành công, ông theo đơn vị chuyển về đóng quân ở vùng núi rừng An Sơn, miền Tây tỉnh Nghệ An.

Năm 1958, ông được cử đi học Trường Lục quân Sơn Tây, rồi chuyển sang Quân chủng Hải quân, làm trợ lý tác chiến của Tiểu đoàn 130, đóng quân ở Bãi Cháy, thị xã Hòn Gai, tỉnh Quảng Ninh.

Những năm 1960, chiến trường miền Nam giục giã. Đoàn tàu không số được thành lập và đường Hồ Chí Minh trên biển hình thành. Ông phấn khởi tình nguyện lên đường làm nhiệm vụ.

"Trong số 12 chuyến tàu không số mà mình có mặt để vào Nam, có 9 chuyến đi "B ngắn", tức vào tuyến lửa Vĩnh Linh. Trong 3 chuyến đi "B dài" thì 2 chuyến vào chiến trường Quảng Ngãi, một chuyến vào Bình Giã" - ông Tuấn kể.

Vì nước quên thân

Chuyến tàu vào Bình Giã thực hiện năm 1964, vượt qua nhiều thách thức.

Tàu cập bến, 44 tấn vũ khí, đạn dược tới tay chiến sĩ Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 tại bến Lộc An. Sau đó, ông lại tiếp tục lên đường vào Vĩnh Linh. Đến năm 1967, ông nhận lệnh cùng đơn vị chuyển vũ khí vào chiến trường Quảng Ngãi.

Những năm đó, địch phát hiện những con tàu không số, nên máy bay, tàu chiến của Hạm đội 7 (Mỹ) từ ngoài khơi xa thường xuyên tuần tra. Ở vùng biển ven bờ thì hải thuyền của địch liên tục lùng sục, nên tàu không số được cải trang thành tàu đánh cá, phía dưới thân tàu lắp đặt 1 tấn thuốc nổ với kíp điện, dây cháy chậm để phòng khi bất khả kháng, anh em tìm cách thoát ra ngoài và cho nổ tàu chứ không thể để vũ khí rơi vào tay địch.

Cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn với hồi ký tàu không số

Cựu chiến binh Trần Ngọc Tuấn với hồi ký tàu không số

Hành trình của những con tàu không số thường xuôi về đảo Hải Nam, rồi thẳng hướng ra hải phận quốc tế trước khi cập bờ ở các tỉnh.

Mình quê ở xã Quế Thọ, huyện Quế Sơn, nay là huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Đi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, mình có mặt ở nhiều vùng chiến trường nhưng Quảng Ngãi vẫn là nơi gắn bó nhất.

Biết những chuyến đi có thể không trở về, máu sẽ nhuộm biển khơi nhưng tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì mục tiêu thống nhất đất nước nên cán bộ, chiến sĩ trong đoàn tàu không số đều tình nguyện đi làm nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu và nhiều người đã anh dũng hy sinh.

Chuyến đi đầu tiên của con tàu không số mang mật danh 43 về Quảng Ngãi được tiến hành vào tháng 3-1967. Dù đã tính toán kỹ lưỡng nhưng khi tàu vào cách vùng biển Sa Kỳ chừng 20 hải lý thì địch phát hiện.

Một cuộc chiến không cân sức giữa con tàu không số đơn độc với máy bay và 3 tàu chiến Mỹ. Các chiến sĩ dũng cảm đã bắn cháy một tàu chiến nhưng con tàu chở vũ khí không thể thoát khỏi vòng vây của kẻ thù.

Lúc tàu vào gần bờ, Chính trị viên, Bí thư Chi bộ tàu 43 Trần Ngọc Tuấn cùng thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng (quê Cà Mau) quyết định cho anh em rời tàu trước khi bật kíp điện cho tàu nổ tung. Sau đó, được cơ sở giúp đỡ, tất cả cán bộ, chiến sĩ ngược đường lên phía núi, theo đường dây giao liên đi bộ hơn 3 tháng mới về đến miền Bắc.

Về đến miền Bắc cũng là lúc ở miền Nam đồng loạt Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Sau cuộc tổng tiến công, cấp trên quyết định phải thêm một lần nữa chuyển vũ khí vào chiến trường Quảng Ngãi. Một con tàu mới mang mật danh 43C được điều động và thuyền trưởng vẫn là Nguyễn Đức Thắng, chính trị viên kiêm bí thư chi bộ là Trần Ngọc Tuấn được giao các nhiệm vụ cụ thể trên con tàu này.

Sau 2 ngày 3 đêm rời bến, tàu đã đến đảo Lý Sơn rồi chếch về hướng Nam để vào vùng biển Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Khi tàu vào đến gần bờ thì địch phát hiện, vây đánh.

Chiến sĩ Vũ Xuân Ruệ - người Thái Bình, mới cưới vợ xong là lên đường làm nhiệm vụ - trúng đạn ngã xuống cabin. Ruệ chỉ nói được một câu "Hãy trả thù cho em" rồi tắt thở. Thủy thủ Phan Văn Kiểm khi mới rời tàu đã trúng đạn rồi mất xác.

"Thương nhất là y tá kiêm pháo thủ Võ Nho Tòng, quê Thái Bình, năm đó vừa có người yêu. Nó bảo sau chuyến đi này, trở về sẽ tổ chức lễ cưới và mình đã nhận với nó là sẽ làm chủ hôn. Nhưng Tòng đã ngã xuống trong trận chiến trên biển này khi vẫn còn giữ chặt súng trong tay" - ông Tuấn kể mà nước mắt rưng rưng.

Nỗi nhớ thương kỳ lạ

Trong câu chuyện kể với chúng tôi, ông Trần Ngọc Tuấn chợt bấm đốt ngón tay nhẩm tính, rồi nói: "Nhanh thật. Ngày 22-6-2025 này là giỗ lần thứ 55 của bác sĩ - liệt sĩ - Anh hùng Lực lượng vũ trang Đặng Thùy Trâm rồi".

Ông trầm ngâm kể tiếp: Sau khi tàu không số vào gần bờ biển Quy Thiện, ngoài 3 chiến sĩ hy sinh, 14 cán bộ, chiến sĩ còn lại được ông cùng thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng quyết định tất cả phải nhanh chóng bơi vào bờ, trước khi cho nổ tàu.

Tượng bác sĩ, liệt sĩ, AHLLVT Đặng Thùy Trâm ở Bệnh xã Đặng Thùy Trâm, tỉnh Quảng Ngãi

Tượng bác sĩ, liệt sĩ, AHLLVT Đặng Thùy Trâm ở Bệnh xã Đặng Thùy Trâm, tỉnh Quảng Ngãi

Những người dân vùng biển Quy Thiện còn nhớ sau khi một ánh chớp và tiếng nổ vang rền, một mảnh thân tàu bay vào bờ vài trăm mét. Cán bộ, du kích địa phương biết nên nhanh chóng đón từng cán bộ, chiến sĩ vào rồi ngay trong đêm đưa lên bệnh xá mang mật danh Bác Mười, ở vùng núi rừng phía Tây huyện Đức Phổ.

Nhưng đường lên bệnh xá bị địch phong tỏa. Ở khu vực núi này, lính Mỹ cắm chốt nên tất cả đành nán lại trong những căn hầm bí mật, một tuần sau mới ngược đường lên.

Lán trại của bệnh xá năm đó làm bằng tranh, tre. Ông Tuấn nhớ như in khi đến bệnh xá là khoảng 13 giờ ngày 7-3-1968. Đích thân bác sĩ Đặng Thùy Trâm cùng 7 y tá ra đón.

Bác sĩ Đặng Thùy Trâm nói: "Các anh đi 2 đêm liền thật vất vả. Vết thương của các anh có đau lắm không? Để em xem có bị nhiễm trùng không? Các anh đã về đến đây rồi, cứ yên tâm mà điều trị. Chúng em sẽ tìm mọi cách có đủ các loại thuốc để chữa trị cho các anh".

Du khách đến tham quan, tìm hiểu tư liệu lịch sử tại Khu Di tích Đặng Thùy Trâm

Du khách đến tham quan, tìm hiểu tư liệu lịch sử tại Khu Di tích Đặng Thùy Trâm

Những năm đó, Đức Phổ thường xuyên hứng chịu những trận càn khốc liệt. Bệnh xá phải dịch chuyển nhiều nơi - hết ở vùng Phổ Cường (huyện Đức Phổ) lại lên Ba Khâm (huyện Ba Tơ).

Để có cái ăn cho toàn bộ anh em, các y - bác sĩ thay phiên nhau xuống các xã đồng bằng để chuyển gạo, muối. Trên đường đi, có người bị phục kích, hy sinh. Thuốc men không phải lúc nào cũng đủ nguồn, nên các y - bác sĩ tích cực trồng thuốc nam để cứu chữa cho thương bệnh binh và người dân trong vùng.

Qua tiếp xúc, biết Đặng Thùy Trâm là một trí thức Hà thành dấn thân vào chiến trường Quảng Ngãi nên ai cũng mến phục, thương yêu. Ở đó hơn một tháng, những cán bộ, chiến sĩ của tàu "không số" mang mật danh 43C lên đường ra Bắc.

Trong hồi ký ghi ngày 10-4-1968 của bác sĩ - liệt sĩ - Anh hùng Lực lượng vũ trang Đặng Thùy Trâm có đoạn: "Vậy là chiều nay các anh lên đường, để lại cho mọi người một nỗi nhớ mênh mông giữa rừng vắng vẻ. Nghe anh Tuấn ra lệnh tất cả khoác ba lô lên đường. Những chiếc ba lô vụng về may bằng những tấm bao Mỹ đã gọn gàng trên vai. Mọi người còn nấn ná đứng lại trước mình, bắt tay chào mình một lần cuối. Bỗng dưng, một nỗi nhớ thương kỳ lạ đối với miền Bắc trào lên trong mình như mặt sông những ngày mưa lũ và… mình khóc ròng đến nỗi không thể đáp lại lời chào của mọi người. Thôi! Các anh đi. Hẹn một ngày gặp lại trên miền Bắc thân yêu".

Tháng 40-1970, ông Trần Ngọc Tuấn lúc đó mang quân hàm trung úy, chuyển về công tác ở Trường Thủy sản tại tỉnh Hưng Yên, sau ngày đất nước thống nhất thì chuyển về Trường Đại học Thủy sản Nha Trang (nay là Đại học Nha Trang), lập gia đình với bà Nguyễn Thị Lệ - nguyên thanh niên xung phong quê tỉnh Thanh Hóa, làm công tác hành chính cùng trường.

Ông Trần Ngọc Tuấn đã được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng nhất và Huân chương Chiến sĩ vẻ vang các hạng nhất, nhì, ba.

Bài và ảnh: Võ Quý Cầu

Nguồn NLĐ: https://nld.com.vn/ky-uc-kho-quen-cua-cuu-binh-tau-khong-so-196250607202406299.htm
Zalo