KTS Trần Huy Ánh: Di dời cơ sở sản xuất phải làm đúng tinh thần quy hoạch
Chủ trương di dời 42 cơ sở sản xuất và 15 trụ sở cơ quan chỉ thực sự phát huy ý nghĩa khi TP bám sát tinh thần quy hoạch, bảo toàn tài sản công và xây dựng bộ tiêu chí rõ ràng về công nghệ, môi trường, sử dụng đất. Đó là ý kiến của KTS Trần Huy Ánh - Ủy viên Thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội, trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị.

Chủ trương di dời 42 cơ sở sản xuất và 15 trụ sở cơ quan chỉ thực sự phát huy ý nghĩa khi TP bám sát tinh thần quy hoạch, bảo toàn tài sản công và xây dựng bộ tiêu chí rõ ràng về công nghệ, môi trường, sử dụng đất. Đó là ý kiến của KTS Trần Huy Ánh - Ủy viên Thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội, trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị.

Ông đánh giá thế nào về ý nghĩa của đợt di dời 42 cơ sở sản xuất và 15 trụ sở cơ quan đối với mục tiêu giảm tải nội đô và tái cấu trúc không gian đô thị của Hà Nội?
- Câu chuyện di dời thì không phải bây giờ mới đặt ra. Trong hàng chục năm qua, từ Quy hoạch năm 1998, rồi đến Quy hoạch chung Hà Nội năm 2011, hay gần đây là điều chỉnh Quy hoạch chung và Quy hoạch Thủ đô đều nhắc đi nhắc lại mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất, bệnh viện, trường học để giảm tải nội đô và tái cấu trúc không gian đô thị.

Nói cách khác, mục tiêu đã có từ lâu nhưng việc thực hiện lại chưa bám sát. Trước đây, chúng ta di dời một số cơ sở ra ngoài nhưng đất sau di dời lại trở thành dự án bất động sản thương mại, chứ không dùng cho công trình công cộng như tinh thần quy hoạch. Điều này khiến mục tiêu giảm tải và tái cấu trúc không gian đô thị bị lu mờ, thậm chí đi lệch hướng.
Tính từ năm 1998 đến nay đã gần 20 năm chúng ta liên tục nhắc lại nhiệm vụ này. Do đó, đợt di dời lần này giống như một lời nhắc rất rõ rằng Hà Nội phải thực hiện cho đúng, để mục tiêu tái cấu trúc không gian đô thị trở thành công việc thực chất, không phải chỉ dừng ở chủ trương. Kỳ vọng lần này là đặt ra mục tiêu như thế nào thì khi làm phải bám sát đúng tinh thần như vậy.

Với yêu cầu rằng các cơ sở di dời phải bảo đảm “đổi mới thiết bị, công nghệ; tiết kiệm năng lượng; bảo đảm môi trường” để tránh tình trạng “ô nhiễm từ nơi này sang nơi khác”, theo ông, đâu là những thách thức lớn nhất trong việc thực thi nguyên tắc này hiệu quả?
- Yêu cầu đặt ra lần này quyết liệt hơn các giai đoạn trước. Trong hơn hai thập kỷ qua, nhiều nhà máy đã di dời khỏi nội đô nhưng phần lớn lại mang theo dây chuyền cũ, công nghệ lạc hậu. Có những khu công nghiệp hình thành từ việc nhập khẩu dây chuyền cũ hoặc tập hợp các cơ sở nhỏ lẻ, thiếu kiểm soát về khí thải và nước thải. Các nghiên cứu độc lập cho thấy không ít khu công nghiệp, đặc biệt ở phía Tây và Tây Nam Hà Nội, gây ô nhiễm bụi mịn và suy giảm chất lượng môi trường sống.
Điều này cho thấy việc di dời nếu thiếu tiêu chí cụ thể về công nghệ, thiết bị, năng lượng thì chỉ mang tính khẩu hiệu, không giải quyết được vấn đề cốt lõi. Đổi mới công nghệ là đổi mới ở cấp nào? Thiết bị thuộc loại gì? Năng lượng được sử dụng theo tiêu chuẩn nào? Tiêu chí môi trường ra sao? Nếu các yêu cầu chỉ dừng ở mức chung chung, không có bộ tiêu chuẩn rõ ràng, việc triển khai dễ rơi vào tình trạng “làm cho có”, dẫn đến nguy cơ ô nhiễm lan từ nơi cũ sang nơi mới, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.
Hà Nội cần ban hành một hệ thống tiêu chí chi tiết, áp dụng từ khâu quy hoạch, thiết kế đến vận hành. Chỉ một tiêu chí rất đơn giản như yêu cầu "tổng khối lượng đào bằng tổng khối lượng đắp" tại các khu công nghiệp hoặc đô thị mới cũng đã giúp duy trì cân bằng thoát nước và giữ được diện tích thấm nước tự nhiên. Thực tế hiện nay, nhiều khu công nghiệp hình thành trên nền ruộng trũng bị san lấp hoàn toàn, khiến khả năng thoát nước giảm, hệ sinh thái tự nhiên bị triệt tiêu, và nguy cơ ngập úng gia tăng.
Vì vậy, muốn hạn chế ô nhiễm và lãng phí tài nguyên đất đai, việc di dời phải gắn liền với bộ tiêu chí cụ thể về thiết bị, công nghệ, năng lượng và môi trường. Nếu không, chủ trương đúng đắn này có thể vô tình tạo ra những hệ lụy dài hạn mà đô thị không còn đủ “không gian chịu đựng” để sửa chữa.

Quỹ đất sau di dời được định hướng ưu tiên cho không gian công cộng, cây xanh và hạ tầng xã hội. Từ góc độ quy hoạch sử dụng đất, đâu là nguyên tắc quan trọng nhất để bảo đảm không gian này thực sự phục vụ lợi ích công và không bị chuyển đổi mục đích?
- Quỹ đất công phải được bảo toàn và tiếp tục là tài sản công. Không được để xảy ra tình trạng chuyển giao cho tư nhân dưới bất kỳ hình thức nào, dù là xã hội hóa, hợp tác đầu tư hay các loại hợp đồng dài - ngắn hạn dẫn đến tư hữu hóa tài sản công. Việc di dời cần bảo đảm nguyên tắc cốt lõi: tài nguyên đất đai của Nhà nước phải được sử dụng đúng mục tiêu công cộng, không bị “trá hình” thành các mô hình khiến đất công bị chuyển hóa sang mục đích tư nhân.

Với đặc thù Hà Nội có nhiều khu dân cư hiện hữu đan xen các cơ sở công nghiệp cũ, theo ông, quá trình chuyển đổi không gian sau di dời cần triển khai theo lộ trình và mô hình nào để tránh xung đột giữa phát triển đô thị mới và bảo tồn cấu trúc đô thị hiện có?
- Thực tế hiện nay cho thấy các khu dân cư hiện hữu thường bị bao quanh bởi những dự án công nghiệp hoặc bất động sản thương mại khiến cấu trúc đô thị truyền thống bị chia cắt. Những khu dân cư cũ vốn là nền tảng hình thành không gian đô thị hiện đại lại phải chịu nhiều bất lợi như: hạ tầng kỹ thuật không được nâng cấp, hạ tầng xã hội bị thu hẹp, trong khi các khu công nghiệp mới không gắn với việc sử dụng lao động địa phương hay nâng cao điều kiện dân sinh.
Đây là mối quan hệ phát triển không cân bằng. Khi triển khai dự án mới, cần có trách nhiệm tái đầu tư, cải thiện điều kiện sống của cộng đồng hiện hữu, thay vì chỉ tập trung khai thác quỹ đất. Vì vậy, quá trình chuyển đổi không gian phải được đặt trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của cư dân cũ, nâng cấp hạ tầng và giữ tính liên tục của cấu trúc đô thị, tránh tình trạng khu mới – khu cũ bị tách biệt.

Việc di dời cơ sở, trụ sở có thể ảnh hưởng tới công nghiệp, DN lâu năm trong nội đô. Theo ông, cần có chính sách hỗ trợ nào đối với DN/trụ sở bị di dời để bảo đảm hoạt động ổn định, bảo vệ quyền lợi người lao động và tránh gián đoạn sản xuất?
- Chính sách hỗ trợ phải dựa trên dữ liệu đầy đủ về chuyển dịch lao động. Trong nhiều năm qua, chúng ta chuyển đổi đất nông nghiệp sang công nghiệp nhưng thiếu đánh giá cụ thể về hiệu quả đào tạo lại, khả năng chuyển đổi nghề và tác động đến sức khỏe người lao động. Đây là khoảng trống lớn.
Trong bối cảnh Hà Nội định hướng phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo, công nghiệp sinh học và kinh tế tri thức, chuyển đổi công nghiệp phải gắn với nâng cao chất lượng lao động, chứ không phải duy trì mô hình sản xuất cũ, gây ô nhiễm và tiêu hao sức khỏe người dân.
Do đó, cần tiến hành thống kê, đánh giá toàn diện về tình trạng lao động trong các ngành sản xuất hiện nay: mức độ đào tạo, khả năng thích ứng, tác động sức khỏe, điều kiện làm việc. Trên cơ sở đó mới xác định được nhóm lao động nào cần hỗ trợ, hình thức hỗ trợ ra sao, và DN phải đáp ứng trách nhiệm xã hội như thế nào theo hướng phát triển bền vững, trong đó môi trường và sức khỏe con người được đặt lên hàng đầu.

Vậy để bảo đảm quá trình di dời gắn kết chặt chẽ với tầm nhìn Quy hoạch chung và Quy hoạch Thủ đô, theo ông, TP cần xây dựng hệ thống tiêu chí và cơ chế giám sát như thế nào đối với cả hai khâu di dời và sử dụng quỹ đất sau di dời?
- Các địa phương hiện nay đang triển khai một cách làm rất linh hoạt. Nhiều đơn vị chủ động bàn thảo và chuyển đổi công năng ngay trong nội bộ, tức là từ những trụ sở dôi dư đã mạnh dạn giao lại cho hoạt động văn hóa, du lịch, lịch sử; đây là những lĩnh vực đang có nhiều tiềm năng phát triển.
Cách tiếp cận này mang lại đồng thời nhiều lợi ích. Tài sản công được bảo toàn, thế mạnh của từng địa phương được phát huy. Đặc biệt, đây cũng là bước hiện thực hóa những định hướng đầu tư cho công nghiệp văn hóa. Từ những kinh nghiệm đó, có thể thấy việc nhân rộng cách làm là phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay, giúp tài sản xã hội vừa được bảo toàn, vừa được khai thác hiệu quả hơn.
Xin cảm ơn ông!

Monday, 08:55 08/12/2025






























