Kinh tế tuần hoàn: Chính sách đã có, vẫn khó triển khai

Mặc dù hiện nay Việt Nam đã ban hành tương đối đầy đủ chiến lược, danh mục ưu tiên đặc biệt là Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn (KTTH) đến năm 2035 (Quyết định 222/QĐ-TTg ngày 23/1/2025). Tuy nhiên, theo các chuyên gia, khu vực kinh tế này vẫn chưa thể bứt phá do thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể và thiếu những 'trung gian kết nối' để đưa chính sách vào thực tiễn.

Chính sách có nhưng thiếu hướng dẫn

Theo TS. Lại Văn Mạnh - Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), hiện đã có hơn 40 quốc gia ban hành chiến lược, lộ trình hoặc kế hoạch hành động về KTTH. Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc với hệ thống chính sách bước đầu khá tương đồng với xu thế toàn cầu. Tuy nhiên, nút thắt lớn nhất hiện nay lại nằm ở khâu thực thi. Ông Mạnh chỉ ra rằng, nhiều quy định vẫn mới ở mức khung, thiếu tiêu chí kỹ thuật và hệ thống tiêu chuẩn - quy chuẩn cụ thể, khiến doanh nghiệp khó xác định thế nào là dự án hay sản phẩm tuần hoàn đúng nghĩa. Các ưu đãi và hỗ trợ dù đã được quy định trong luật và nghị định, nhưng thủ tục và điều kiện tiếp cận còn phức tạp, đặc biệt gây khó cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Một rào cản khác là hệ thống thu gom, phân loại chất thải - nền tảng của KTTH còn rất yếu, khiến nguồn nguyên liệu tái chế thiếu ổn định. Khi khảo sát tại Việt Nam, nhiều tập đoàn quốc tế đều lo ngại khả năng cung ứng đầu vào tái chế. Thêm vào đó, cơ sở dữ liệu về dòng vật chất, chất thải và các mô hình tuần hoàn chưa đầy đủ, gây khó khăn cho việc thiết kế, đánh giá và điều chỉnh chính sách. “Chúng ta đã có đề án, có kế hoạch, có danh mục xanh… nhưng mô hình KTTH đúng nghĩa, đo đếm được hiệu quả kinh tế - môi trường vẫn rất ít. Chính sách đã có, nhưng đưa vào đời sống thì vô cùng khó khăn”, ông Mạnh thừa nhận.

Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Phạm Hồng Điệp - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Shinec, người tiên phong phát triển Khu công nghiệp sinh thái Nam Cầu Kiền (Hải Phòng) khẳng định, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam không chỉ sẵn sàng mà còn đang chủ động tiếp cận mô hình KTTH. Theo ông, đa số doanh nghiệp đều nhận thức rõ đây là xu thế tất yếu của thế giới và là điều kiện bắt buộc trong thương mại quốc tế. Từ năm 2026, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực nếu không đáp ứng quy định tuần hoàn sẽ bị hạn chế hoặc từ chối nhập khẩu.

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư máy móc, công nghệ tái chế, cải tiến quy trình sản xuất theo hướng tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải; một số khu công nghiệp như Nam Cầu Kiền đã được tổ chức quốc tế chứng nhận là khu công nghiệp sinh thái. Các tập đoàn lớn trong ngành dệt may, gỗ, nhựa, điện tử… cũng đang chuyển đổi mô hình quản lý vật liệu, thúc đẩy tái sử dụng và thu hồi phụ phẩm. Điều này cho thấy sự chuẩn bị nội lực của doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, không hề thụ động hay “đứng ngoài cuộc”.

Tuy nhiên, ông Điệp chỉ ra rào cản lớn từ hệ thống pháp luật chưa đồng bộ. Dù Luật Bảo vệ Môi trường 2020 và Nghị định 35 đã có những quy định về KTTH và khu công nghiệp sinh thái, nhưng khi áp dụng lại vướng xung đột với các luật khác, đặc biệt là Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng. Doanh nghiệp muốn mở khu công nghiệp sinh thái nhưng địa phương không thể phê duyệt vì “không có quy hoạch về tái chế”.

Ngoài ra, “muốn làm KTTH phải xin quá nhiều giấy phép. Các nghị quyết của Trung ương đã rất rõ tinh thần cải cách, nhưng văn bản dưới luật lại chưa thay đổi kịp”, ông Điệp chia sẻ. Ngay cả với mô hình thành công như Nam Cầu Kiền, dù được quốc tế công nhận, trong nước vẫn chưa được ghi nhận đúng mức do vướng pháp lý.

Thu hẹp khoảng cách chính sách – thực tiễn

Từ thực tiễn này, ông Điệp kiến nghị Chính phủ sớm hoàn thiện hành lang pháp lý thống nhất về KTTH. Trước mắt, cần có một nghị định hoặc quyết định riêng, đủ rõ ràng để địa phương và doanh nghiệp áp dụng. “Nếu chậm trễ, chính các yêu cầu xanh trong các hiệp định thương mại sẽ trở thành rào cản khiến tăng trưởng kinh tế Việt Nam bị kéo tụt sau năm 2026”, ông Điệp cảnh báo.

TS. Lại Văn Mạnh cũng chỉ ra những nhóm nhiệm vụ lớn để từng bước thu hẹp khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn. Trước hết là nâng cao nhận thức, kiến thức và thay đổi hành vi. Người dân còn thói quen “xài rồi bỏ”, doanh nghiệp vẫn coi xử lý chất thải là chi phí, nhiều địa phương xem tài nguyên như nguồn khai thác vô hạn. Bên cạnh đó cần sớm ban hành bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản phẩm tuần hoàn cho từng ngành, quy định phương pháp đo lường mức độ tuần hoàn của dự án, sản phẩm; đồng thời vận hành hiệu quả các cơ chế mua sắm công xanh, trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), cùng hệ thống thuế - phí khuyến khích sản phẩm thân thiện môi trường.

Cùng với đó là hỗ trợ trực tiếp các mô hình KTTH trong doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiếp cận tín dụng xanh, thiết kế sinh thái, cải tiến quy trình và mở rộng thị trường cho sản phẩm tuần hoàn.

Sau nữa là quản lý chất thải. Không phân loại chất thải từ nguồn thì không thể có nguyên liệu cho chuỗi tái chế. Đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội để xây dựng những chuỗi giá trị mới theo tiêu chuẩn xanh quốc tế.

Cuối cùng là tăng cường liên kết và chia sẻ học hỏi giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện trường - cộng đồng. Theo các chuyên gia muốn KTTH thực sự đi vào đời sống, Việt Nam cần hành động nhanh hơn, rõ hơn và mạnh mẽ hơn - bởi cơ hội đang đến, nhưng sẽ không chờ đợi. Khoảng cách giữa “đã có chính sách” và “đã thực hiện được” chính là phép thử đối với năng lực quản trị quốc gia, năng lực đổi mới của doanh nghiệp và mức độ sẵn sàng của toàn xã hội cho một mô hình phát triển mới, mô hình tuần hoàn, xanh và số.

Trà Giang

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/kinh-te-tuan-hoan-chinh-sach-da-co-van-kho-trien-khai-173735.html