Kinh tế hóa môi trường, thiết lập cơ chế định giá tài nguyên
Môi trường là một trong ba trụ cột quan trọng 'Kinh tế - Xã hội - Môi trường'. Để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường, Nghị quyết của Quốc hội xác định, phải thống nhất nhận thức và hành động coi 'chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường'; đẩy mạnh thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái; nâng cao hiệu quả của công cụ thuế, phí...
Một số mục tiêu chính sách chưa đạt hiệu quả như mong muốn
Từ Báo cáo kết quả giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực", Quốc hội nhận thấy, trong thời gian qua, nước ta chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật. Ngân sách nhà nước (NSNN) chi cho sự nghiệp môi trường được quan tâm (năm 2024, đạt 1,12% tổng chi NSNN).

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm VPQH Lê Quang Mạnh - Phó Trưởng Đoàn giám sát của Quốc hội, trình bày báo cáo tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội khóa XV. Ảnh: Q. Khánh
Với những nỗ lực thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, Quốc hội ghi nhận công tác này đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Dù vậy, tại Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, Quốc hội cũng thẳng thắn nêu rõ nhiều hạn chế, tồn tại.
Trong đó, có việc một số mục tiêu chính sách của Luật Bảo vệ môi trường thể hiện trong các pháp luật khác có liên quan chưa đạt hiệu quả mong muốn. Ví dụ, mục tiêu thúc đẩy thay đổi hành vi, thói quen tiêu dùng thông qua pháp luật về thuế, phí về bảo vệ môi trường; mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để thúc đẩy các dự án về bảo vệ môi trường thông qua pháp luật về NSNN...
Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn mới, Quốc hội đề nghị, Chính phủ, các Bộ, ngành tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm xuyên suốt trong tư duy, tầm nhìn và định hướng phát triển bền vững đất nước; loại bỏ quan điểm “Bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”.
Tiếp tục hoàn thiện nhóm chỉ tiêu về môi trường, trong đó chú trọng cơ chế giao chỉ tiêu thực hiện cụ thể cho các địa phương gắn với cơ chế đánh giá trách nhiệm hoàn thành của người đứng đầu; bổ sung chỉ tiêu về tăng trưởng carbon thấp vào hệ thống chỉ tiêu phát triển quốc gia và trong kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm, hàng năm phù hợp với yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn.

Các ĐBQH tham dự phiên họp. Ảnh: Q. Khánh
Đáng chú ý, trong Nghị quyết, Quốc hội nhấn mạnh, cần thống nhất trong nhận thức và hành động, coi chi cho môi trường là đầu tư cho phát triển, bảo đảm an ninh môi trường. Đẩy mạnh thực hiện “kinh tế hóa môi trường”, thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải.
Áp dụng triệt để nguyên tắc: “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”.
Ưu tiên nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm
Bên cạnh việc chú trọng đầu tư phát triển các công trình bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, Nghị quyết cũng nêu rõ, cần ưu tiên nguồn lực từ ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cho bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.
Qua đó, xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng môi trường thiết yếu như: hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị; hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải phù hợp cho từng loại rác, các nhà máy tái chế, xử lý rác thải hữu cơ, chất thải nguy hại; cải thiện và phục hồi môi trường các lưu vực sông; thích ứng với biến đổi khí hậu; hỗ trợ hoạt động chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính, vận hành thị trường carbon; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ mới không phát thải, công nghệ lưu trữ năng lượng, thu giữ và sử dụng carbon thông qua các cơ chế tài chính linh hoạt (như đầu tư công hoặc hợp tác công tư...).
Mặt khác, để nâng tỷ trọng chi ngân sách cho bảo vệ môi trường trong thời gian tới, phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế, Nghị quyết xác định rõ, cần bố trí đúng, đủ, quản lý có hiệu quả và tăng dần chi ngân sách cho bảo vệ môi trường tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm từ năm 2027 tỷ trọng ngân sách chi cho bảo vệ môi trường trong tổng chi NSNN tăng hơn so với năm 2025.
Quốc hội cũng đề nghị, hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường; phát huy vai trò của các quỹ bảo vệ môi trường, huy động nguồn lực tư nhân thông qua các công cụ tài chính xanh, như trái phiếu xanh, tín dụng xanh... để triển khai các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính.
Đồng thời, chú trọng đổi mới hình thức, phương thức ưu đãi, hỗ trợ, cơ chế bảo lãnh rủi ro cho các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường và áp dụng tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị - ESG phù hợp với nhu cầu thực tế của từng địa phương.
Đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ carbon trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên cho phát triển thị trường trong nước. Khuyến khích phát triển các dự án tạo tín chỉ carbon trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, lâm nghiệp, nông nghiệp carbon thấp, xử lý chất thải, công nghiệp xanh, giao thông xanh, các công nghệ thu hồi, lưu giữ carbon. Thúc đẩy đầu tư theo cơ chế đối tác công - tư, phát triển các mô hình hợp tác đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu.

































