Kinh nghiệm quốc tế về ứng dụng công nghệ thông tin và kiểm toán môi trường

Sáng 20/8, Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán phối hợp với Vụ Hợp tác quốc tế tổ chức Tọa đàm 'Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế năm 2025'.

Quang cảnh Tọa đàm. Ảnh: Nguyễn Ly

Quang cảnh Tọa đàm. Ảnh: Nguyễn Ly

Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán Hà Minh Tuấn và Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Lăng Trịnh Mai Hương đồng chủ trì Tọa đàm. Cùng tham dự có đại diện lãnh đạo, kiểm toán viên các đơn vị tham mưu, KTNN chuyên ngành và kết nối trực tuyến với các KTNN khu vực.

Xây dựng và áp dụng các chuẩn mực dữ liệu kiểm toán

Theo Phó Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành VII Phan Trường Giang, chuyển đổi số đang được triển khai mạnh mẽ và KTNN không thể đứng ngoài cuộc. Kinh nghiệm của KTNN Trung Quốc (CNAO) cho thấy, từ năm 2002, KTNN Trung Quốc triển khai "Dự án kiểm toán Vàng" với ba giai đoạn: Xây dựng hạ tầng; Kết nối hệ thống; Tích hợp dữ liệu và AI.

Hiện nay, CNAO đã phát triển hệ thống "Smart Audit Platform 2.0" - một nền tảng kiểm toán thông minh tích hợp toàn bộ quy trình kiểm toán từ lập kế hoạch, thu thập dữ liệu, xử lý, phân tích đến kết luận và theo dõi kiến nghị. Theo đó, CNAO áp dụng các thuật toán phân tích mạng lưới, AI và đồ thị tri thức để rà soát hàng triệu hồ sơ bảo hiểm, phát hiện gian lận kiểu vòng tròn, trùng lặp danh tính, hoặc hồ sơ ảo. Đặc biệt, hệ thống có thể cảnh báo theo thời gian thực các trường hợp chi trả bất thường.

Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán Hà Minh Tuấn và Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Lăng Trịnh Mai Hương đồng chủ trì Tọa đàm. Ảnh: Nguyễn Ly

Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán Hà Minh Tuấn và Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Lăng Trịnh Mai Hương đồng chủ trì Tọa đàm. Ảnh: Nguyễn Ly

Trong kiểm toán tài nguyên môi trường, việc ứng dụng GIS, UAV (drone), công nghệ LiDAR và ảnh viễn thám cho phép kiểm toán viên xác định chính xác các khu vực khai thác khoáng sản trái phép, thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, hoặc vi phạm ranh giới quy hoạch. Kiểm toán viên không cần tiếp cận thực địa mà vẫn có thể xác minh được toàn cảnh bằng công nghệ đo vẽ 3D và bản đồ số.

Bên cạnh đó, Trung Quốc là quốc gia đi đầu trong việc thiết lập các tiêu chuẩn dữ liệu kiểm toán ở cấp độ quốc tế. Thông qua việc chủ trì Ủy ban kỹ thuật ISO/TC 295, Trung Quốc đã xây dựng và công bố các tiêu chuẩn dữ liệu kiểm toán như ISO 21378 (thu thập dữ liệu), ISO 5401 (dữ liệu thuế và hải quan), ISO 5405 (dữ liệu tài chính và tiền lương khu vực công)...

CNAO tổ chức mô hình đào tạo theo 3 cấp: sơ cấp (kiến thức nền tảng), trung cấp (kỹ năng phân tích thực hành) và cao cấp (nâng cao và chuyên biệt hóa). Trong đó, đào tạo trung cấp được coi là nòng cốt. Đến nay, CNAO đã tổ chức trên 60 khóa trung cấp, đào tạo gần 5.000 kiểm toán viên công nghệ, tạo thành một lực lượng nòng cốt triển khai kiểm toán số.

Đại diện KTNN chuyên ngành VII đánh giá, KTNN Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội lớn, đồng thời cũng đối mặt với không ít thách thức trong việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), dữ liệu lớn và AI trong hoạt động kiểm toán.

KTNN đã ban hành một số định hướng chiến lược về ứng dụng CNTT trong kiểm toán. Nhiều đơn vị đã chủ động áp dụng công nghệ trong các cuộc kiểm toán cụ thể, thử nghiệm công cụ phân tích dữ liệu và xây dựng cơ sở dữ liệu nội bộ. Tuy nhiên, KTNN chưa có một chiến lược chuyển đổi số tổng thể, dài hạn và đồng bộ.

Ngoài ra, việc thiếu vắng một bộ tiêu chuẩn dữ liệu thống nhất trong toàn Ngành, đặc biệt trong kết nối với hệ thống dữ liệu của các cơ quan bên ngoài khiến quá trình thu thập và xử lý thông tin gặp nhiều hạn chế. KTNN cũng chưa tham gia vào tiến trình xây dựng và áp dụng các chuẩn mực dữ liệu kiểm toán quốc tế như ISO/TC 295 - một xu hướng tất yếu trong kiểm toán hiện đại.

Phó Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành VII Phan Trường Giang cho rằng, KTNN Việt Nam cần có một chiến lược chuyển đổi số tổng thể, dài hạn và đồng bộ. Ảnh: Nguyễn Ly

Phó Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành VII Phan Trường Giang cho rằng, KTNN Việt Nam cần có một chiến lược chuyển đổi số tổng thể, dài hạn và đồng bộ. Ảnh: Nguyễn Ly

Từ kinh nghiệm quốc tế, TS. Phan Trường Giang cho rằng, KTNN Việt Nam cần xem xét triển khai đồng bộ các giải pháp: Ban hành Chiến lược chuyển đổi số KTNN giai đoạn 2025-2035 với tầm nhìn rõ ràng, mục tiêu định lượng cụ thể theo từng giai đoạn; sửa đổi, bổ sung Luật KTNN và các văn bản liên quan nhằm. Đồng thời, ban hành tiêu chuẩn định dạng dữ liệu phục vụ kiểm toán; thiết lập cơ chế bảo mật, lưu trữ, xử lý và tái sử dụng dữ liệu một cách hợp pháp và hiệu quả.

Bên cạnh đó, xây dựng chương trình đào tạo kiểm toán viên theo hướng phân cấp (sơ - trung - cao), trong đó trung cấp là nòng cốt. Tăng cường nội dung thực hành, phân tích dữ liệu, sử dụng công cụ CNTT, đặc biệt là các ngôn ngữ lập trình như Python. Áp dụng cơ chế kiểm tra đầu ra, cấp chứng chỉ CNTT nội bộ nhằm tạo động lực và căn cứ phân công nhiệm vụ.

KTNN có thể phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan xây dựng bộ tiêu chuẩn dữ liệu kiểm toán hài hòa với ISO/TC 295, phù hợp đặc thù Việt Nam. Ưu tiên phát triển trung tâm dữ liệu tập trung, hạ tầng truyền dẫn, công cụ phân tích dữ liệu lớn, hệ thống kiểm toán số, bảo đảm an toàn thông tin theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 27001, GDPR). Đồng thời, có kế hoạch dự phòng và khôi phục dữ liệu khi có sự cố.

Tạo đàm kết nối trực tuyến với các KTNN khu vực.

Tạo đàm kết nối trực tuyến với các KTNN khu vực.

Kiểm toán thích hợp, đo lường và đánh giá hiệu quả các dự án môi trường

Kiểm toán môi trường (KTMT) là lĩnh vực kiểm toán nhận được sự quan tâm của nhiều cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) trên thế giới. Một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của các SAI thời gian qua là chủ đề do SAI New Zealand đề xuất “Từ đánh giá tuân thủ đến tác động trong việc kiểm tra các khoản chi tiêu cho môi trường”. Vấn đề được đặt ra là vai trò của các SAI trong hoạt động kiểm toán, trong đó có kiểm toán môi trường đối với các chính sách phát triển của các quốc gia.

Theo bà Vũ Thị Lan Anh - Vụ Chế độ và Kiểm soát chất lượng kiểm toán, các SAI đã làm rõ một số giải pháp nhằm gia tăng giá trị hoạt động KTMT, cụ thể: KTMT cần phát triển các phương pháp kiểm toán thích hợp, hướng tới đo lường và đánh giá kết quả hoạt động của các chương trình, dự án môi trường.

Các hướng dẫn của INTOSAI hiện nay cũng chỉ rõ KTMT được thực hiện thông qua 3 loại hình kiểm toán, nhưng giá trị thực sự của KTMT đóng góp cho sự phát triển phải xuất phát từ kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ các quy định về môi trường để đạt mục tiêu chung lf đảm bảo tuân thủ luật môi trường, xác định và giảm thiểu rủi ro và thúc đẩy tính bền vững...

Các kiểm toán viên chia sẻ kinh nghiệm từ thực tiễn kiểm toán và học tập từ các SAI.

Các kiểm toán viên chia sẻ kinh nghiệm từ thực tiễn kiểm toán và học tập từ các SAI.

Đối với riêng chủ đề BĐKH, khác với KTMT tập trung vào việc tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường hoặc đánh giá hiệu quả quản lý tài nguyên thiên nhiên, kiểm toán BĐKH hướng trọng tâm vào các chính sách, chương trình và hành động của chính phủ nhằm giảm phát thải khí nhà kính, tăng khả năng thích ứng, và đáp ứng các cam kết quốc tế liên quan đến khí hậu.

Nhiều quốc gia thành công khi lựa chọn một mô hình nền tảng như ClimateScanner hay ISAM, sau đó điều chỉnh tiêu chí, chỉ số cho phù hợp với đặc thù kinh tế - xã hội của mình. Việt Nam cũng nên có một “khung kiểm toán khí hậu quốc gia” thống nhất, làm căn cứ cho tất cả các cuộc kiểm toán liên quan, tránh tình trạng mỗi đơn vị áp dụng một cách khác nhau.

Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế Lăng Trịnh Mai Hương cho rằng, thành công trong kiểm toán BĐKH không chỉ nằm ở việc xác định đúng phạm vi và phương pháp, mà còn phụ thuộc vào khả năng kết nối các bên liên quan, khai thác dữ liệu hiệu quả, và đưa ra những khuyến nghị khả thi giúp cải thiện chính sách công. Đây cũng chính là những yếu tố mà KTNN Việt Nam cần lưu ý khi xây dựng lộ trình tiếp cận lĩnh vực này.

Sự phát triển nhanh chóng của kiểm toán BĐKH trên thế giới gắn liền với một số sáng kiến và công cụ chuyên biệt do các tổ chức quốc tế và các cơ quan kiểm toán khu vực xây dựng. Cụ thể như: Mô hình kiểm toán về phát triển bền vững (ISAM) do Cơ quan Sáng kiến Phát triển INTOSAI phát triển; Chương trình Đánh giá quản lý tài chính công (PEFA); Máy quét khí hậu – ClimateScanner…

Từ kinh nghiệm quốc tế, có thể rút ra một số bài học quan trọng cho việc phát triển kiểm toán BĐKH tại Việt Nam. Theo đó, KTNN cần xây dựng khung phương pháp kiểm toán BĐKH phù hợp với bối cảnh trong nước nhưng tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Trong bối cảnh ngân sách khí hậu phân bổ qua nhiều bộ ngành và địa phương, việc theo dõi tập trung và kiểm toán định kỳ sẽ giúp phát hiện sớm bất cập, từ đó điều chỉnh kịp thời.

THÙY LÊ

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-ung-dung-cong-nghe-thong-tin-va-kiem-toan-moi-truong-42428.html
Zalo