Kiến tạo 'siêu đô thị quốc tế' của Đông Nam Á

Từ ngày 1-7-, TPHCM mới chính thức vận hành theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp là thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị phường, xã, đặc khu.

Cầu Ba Son nối trung tâm TPHCM với khu đô thị mới Thủ Thiêm (TP Thủ Đức). Ảnh: HOÀNG HÙNG

Trên nền diện tích 6.772 km2 và dân số xấp xỉ 13,6-14 triệu người, TPHCM mới trở thành một thực thể đô thị đặc biệt - có quy mô, tầm vóc và yêu cầu vận hành sánh ngang với các siêu đô thị hàng đầu khu vực châu Á.

Điều này không chỉ là một cuộc sắp xếp địa giới hành chính. Đây là lời mở đầu cho một chương mới về mô hình đô thị tích hợp, với thể chế quản trị hoàn toàn mới, một cấu trúc không gian phát triển liên kết động, và một phương thức điều hành dựa trên dữ liệu, công nghệ, sáng tạo và năng lực phối hợp xã hội.

Trong bối cảnh ấy, yêu cầu không chỉ là mở rộng về lượng - mà phải vươn lên về chất. TPHCM mới cần định hình lại vai trò lịch sử: từ một đô thị đầu tàu trở thành một siêu đô thị quốc tế - một trung tâm tài chính, đổi mới sáng tạo, logistics và văn hóa có tầm ảnh hưởng khu vực.

Tầm nhìn này đã được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Tầm nhìn mới cho TPHCM mới là trở thành “siêu đô thị quốc tế” của Đông Nam Á - một đô thị thông minh, xanh, sáng tạo, tiêu biểu không chỉ về sức mạnh kinh tế mà cả sự phong phú về văn hóa, nghệ thuật, thể thao, giải trí và phong cách sống hiện đại, năng động.

Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, TPHCM mới phải vượt qua những thách thức chưa từng có. Trước khi sáp nhập, TPHCM, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu đều đối mặt với nhiều vấn đề nan giải: phân mảnh thể chế, quy hoạch thiếu tích hợp, hạ tầng quá tải, năng lực điều hành dàn trải.

Sau khi sáp nhập, nếu không tái thiết mô hình phát triển và không đổi mới thể chế điều hành, quy mô lớn sẽ trở thành gánh nặng thay vì cơ hội. Đây là bài toán phức hợp về quản trị đại đô thị - không thể giải bằng cách tiếp cận cũ.

Trong bối cảnh đó, TPHCM mới cần lựa chọn một hướng đi mang tính đột phá: lấy khoa học - công nghệ làm nền tảng, lấy chính sách đổi mới làm công cụ điều hành, và lấy cộng đồng xã hội làm chủ thể đồng kiến tạo.

Điều hành một đô thị quy mô siêu lớn không thể dựa vào kinh nghiệm cảm tính hay mệnh lệnh hành chính, mà phải dựa vào số liệu thời gian thực, nền tảng điều hành tích hợp (UDCC), trí tuệ nhân tạo, các mô hình mô phỏng - dự báo và các công cụ quản trị thích ứng.

Song song đó, TPHCM mới cần xây dựng một thể chế linh hoạt, thử nghiệm các cơ chế mới trong khuôn khổ sandbox chính sách - từ tài chính công, dữ liệu mở, công nghệ số, đến tổ chức lại dịch vụ công và mô hình hợp tác công - tư. Mỗi chính sách đều phải được thiết kế như một vòng đời: từ thử nghiệm - phản hồi - hiệu chỉnh - mở rộng.

Đây không chỉ là cải cách quản lý, mà là đổi mới từ trong tư duy chính sách. Đặc biệt, TPHCM mới phải tái cấu trúc toàn bộ không gian phát triển - không chỉ theo ranh giới hành chính, mà theo mô hình phát triển liên kết động:

Trục - Cực - Vệ tinh. Trong đó, trục Đông - Tây sẽ đóng vai trò hành lang chiến lược, kéo dài từ cụm cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải, qua trục công nghệ cao phía Đông (Thủ Đức - Dĩ An - Tân Uyên), đến vành đai logistics phía Tây Nam (Tân Kiên - Bến Lức). Trục Tây Bắc là tuyến thương mại liên quốc gia nối Mộc Bài với hành lang logistics nội địa và khu công nghiệp phụ trợ.

Trên các trục ấy, những cực phát triển chuyên biệt sẽ được tổ chức như các trung tâm chức năng tự vận hành: cực tài chính phía Đông (Thủ Thiêm), cực đổi mới sáng tạo phía Đông (Đại học - Công nghệ - Trí tuệ nhân tạo), cực logistics Tây Bắc. Bao quanh là các vệ tinh thông minh, từ khu sinh thái - du lịch (Cần Giờ - Long Hải - Hồ Tràm), khu công nghệ cao, đến các trung tâm trí tuệ nhân tạo (AI) - dữ liệu - sản xuất sáng tạo.

Những mô hình nêu trên không thể vận hành hiệu quả nếu thiếu nền tảng hạ tầng số và dữ liệu. Một đô thị thông minh trước hết là một đô thị có khả năng đọc hiểu chính mình. TPHCM mới nên khẩn trương thiết lập kho dữ liệu dùng chung, bản đồ số thời gian thực, hệ thống cảm biến IoT, trung tâm dữ liệu thành phố và các nền tảng điện toán đám mây.

Đây là điều kiện tiên quyết để triển khai chính quyền số, dịch vụ công thông minh, và đặc biệt là mô hình điều hành tích hợp thời gian thực toàn đô thị.

Trung tâm TPHCM nhìn từ khu vực Thủ Thiêm (TP Thủ Đức). Ảnh: HOÀNG HÙNG

Đi đôi với hạ tầng số là hạ tầng thể chế cho đổi mới sáng tạo. TPHCM mới cần xây dựng một hệ sinh thái khoa học - công nghệ vùng, kết nối doanh nghiệp - trường viện - nhà đầu tư - startup (khởi nghiệp) trong cùng một cấu trúc linh hoạt.

Quỹ đổi mới sáng tạo cấp thành phố phải trở thành công cụ tài chính tiên phong, khuyến khích các dự án công nghệ có tác động xã hội và tính lan tỏa cao. Bên cạnh đó, nên hình thành các đặc khu công nghệ cao, trung tâm thử nghiệm liên ngành, nơi các ý tưởng, sản phẩm và chính sách cùng được vận hành trên một cơ chế thử nghiệm nhanh - đánh giá linh hoạt - mở rộng theo năng lực thực tế.

Tuy nhiên, một đô thị mới không thể chỉ được kiến tạo từ trên xuống. Sự thành công của TPHCM mới phụ thuộc trước hết vào sự chủ động của 3 lực lượng xã hội cốt lõi: cộng đồng khoa học, doanh nghiệp - doanh nhân và người dân.

Cộng đồng khoa học và đội ngũ trí thức chính là lực lượng dẫn dắt tư duy phát triển mới - từ phản biện chính sách, tư vấn thể chế đến nghiên cứu mô hình điều hành đô thị. Thành phố nên hình thành mạng lưới trí thức đô thị, các nhóm chuyên gia liên ngành và hội đồng tư vấn chính sách khoa học công.

Đây là tầng "bộ não" chiến lược, giúp thành phố không bị tụt hậu trước các biến động công nghệ và xu hướng phát triển toàn cầu. Trong khi đó, doanh nghiệp và doanh nhân, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, chính là động lực thực thi mô hình kinh tế sáng tạo. Theo tinh thần Nghị quyết số 68, TPHCM mới nên xây dựng một môi trường thể chế cho phép doanh nghiệp không chỉ thụ hưởng mà đồng kiến tạo: đề xuất chính sách, đầu tư mô hình mới, và hợp tác giải quyết bài toán đô thị. Cần chuyển đổi vai trò doanh nghiệp từ "đối tượng được hỗ trợ" thành "tác nhân kiến tạo".

Quan trọng nhất, người dân không chỉ là trung tâm của mọi chính sách mà còn là linh hồn sống của đô thị. Một thành phố chỉ thực sự thông minh khi người dân cảm thấy mình có tiếng nói, có giá trị, và có vai trò trong quá trình phát triển.

TPHCM mới cần kiến tạo một nền văn hóa công dân số - nơi người dân có thể tiếp cận thông tin minh bạch, tham gia góp ý chính sách, sử dụng nền tảng công nghệ để tương tác với chính quyền, đồng thời có trách nhiệm với cộng đồng và môi trường sống.

Mô hình “phường thông minh” chỉ thành công khi được vận hành bởi những "ông dân thông minh" - hiểu biết, kết nối và chủ động. Như vậy, TPHCM mới không chỉ là sự mở rộng về địa lý hay quy mô hành chính.

Đó là lời hiệu triệu cho một mô hình đô thị mới - sâu hơn, thông minh hơn, nhân văn hơn. Nơi ấy, chính sách được thử nghiệm chứ không chỉ áp đặt. Hệ thống vận hành bằng dữ liệu chứ không bằng kinh nghiệm chủ quan. Và người dân trở thành chủ thể của thay đổi, chứ không chỉ là người thụ hưởng thụ động.

Đúng như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: Một TPHCM phát triển năng động, đổi mới sáng tạo, có tầm vóc châu Á và bản sắc riêng biệt không chỉ là khát vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố mới sáp nhập, mà còn là một phần quan trọng trong khát vọng Việt Nam hùng cường vào năm 2045.

Đây không chỉ là một định hướng, mà là một mệnh lệnh phát triển. Trước chúng ta là một thời cơ có một không hai, và cũng là một thử thách mang tính lịch sử. Hơn bao giờ hết, TPHCM mới cần sự chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị, giới trí thức, doanh nghiệp và mỗi người dân để biến khát vọng trở thành hiện thực.

Từ mỗi người dân, mỗi tổ chức đến mỗi ngành nghề, tất cả đều có thể góp phần vào lời giải cho "siêu đô thị tương lai". Không chỉ để xây dựng một thành phố mới mà để kiến tạo một tầm vóc mới cho cả quốc gia.

TS NGUYỄN THÀNH PHONG - Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn (RISE), nguyên Chủ tịch UBND TPHCM

Nguồn SGĐT: https://dttc.sggp.org.vn/kien-tao-sieu-do-thi-quoc-te-cua-dong-nam-a-post123901.html
Zalo