'Kiến tạo những động lực tăng trưởng hiện đại, bền vững trong kỷ nguyên mới'
Việt Nam đang bước vào thời kỳ kinh tế mang tính lịch sử, với những 'tham vọng' mới về tăng trưởng cao. Trong bối cảnh đó, các động lực tăng trưởng truyền thống đã tới hạn, và cần những động lực mới phù hợp với cấu trúc và bối cảnh phát triển của Việt Nam hiện nay.

Công nghệ được coi là một trong những động lực tăng trưởng mới cho kinh tế trong kỷ nguyên mới.
Động lực truyền thống tiếp tục tạo sức bật
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển có ý nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đã xác định tầm nhìn chiến lược: đến năm 2030, nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Trước mắt, Việt Nam cần đạt mục tiêu tăng trưởng từ 8% trong năm 2025 và sẽ tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026-2030.
Nhìn lại tốc độ tăng trưởng năm 2024 với GDP đạt 7,09% và 6 tháng đầu năm 2025, GDP ở mức 7,52% (theo báo cáo của Cục Thống kê, Bộ Tài chính), cho thấy kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng tốc để thực hiện kế hoạch tăng trưởng kinh tế đặt ra.
Các động lực truyền thống như đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng đều tăng trưởng mạnh mẽ.
Theo báo cáo của Cục Thống kê, Bộ Tài chính, vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước được các bộ, ngành và địa phương tập trung đẩy mạnh thực hiện, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Tính chung tám tháng năm 2025, vốn đầu tư công ước đạt 48,3% kế hoạch, tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 31/8/2025 đạt 26,14 tỷ USD, tăng 27,3% so cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam tám tháng năm 2025 ước đạt 15,40 tỷ USD, tăng 8,8% so cùng kỳ năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất của tám tháng trong 5 năm qua.
Xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2025 có mức tăng đáng kể, với 14,8% so cùng kỳ năm trước. Về tiêu dùng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tám tháng năm 2025 tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước.

Các động lực tăng trưởng truyền thống đóng góp không nhỏ và sự phát triển kinh tế của đất nước. (Ảnh: DUY LINH)
Sức ép trên hành trình tăng trưởng
Mặc dù tăng trưởng tích cực, nhưng kinh tế trong nước và quốc tế cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn cần phải vượt qua.
Với chính những động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, mặc dù liên tục bứt phá với mức tăng 8,5% trong 8 tháng qua, nhưng “cơn bão thương mại” lan rộng, thuế quan leo thang, nguyên vật liệu và công nghệ phụ thuộc vào nhập khẩu… luôn thử thách năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
“Đồng thời nhu cầu thế giới giảm, xu hướng bảo hộ thương mại và cạnh tranh ngày càng gia tăng. Đây là những yếu tố đang gây sức ép lên hoạt động xuất khẩu của Việt Nam”, Tiến sĩ Nguyễn Quỳnh Trang, giảng viên Trường đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội trao đổi với phóng viên Báo Nhân Dân.
Về tiêu dùng cuối cùng - chỉ số quan trọng có đóng góp tới hơn 80% vào GDP, theo thống kê của Bộ Tài chính, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 8 tháng năm 2025 tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Sau khi loại trừ yếu tố giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng 7,2%, thấp hơn mức 8,0% của cùng kỳ năm 2024.
Trong báo cáo về tình hình kinh tế tám tháng đầu năm 2025, chuyên gia kinh tế của Hathaway Policy cho rằng đây là dấu hiệu “lệch pha”, tức là khoảng cách giữa tăng trưởng danh nghĩa và sức mua thực tế ngày càng nới rộng. Nếu xu hướng này kéo dài, sự suy yếu trong sức mua sẽ nhanh chóng biến thành lực cản lớn cho tăng trưởng trong những tháng còn lại của năm.

Tiêu dùng cuối cùng là một trong những chỉ số quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vừa qua, tại Hội thảo "“Động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới" do Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia tổ chức, các chuyên gia đã cho ý kiến về những yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Đánh giá về thách thức căn bản của kinh tế trong nước, Giáo sư Trần Văn Thọ, Giáo sư danh dự, Trường đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản, đề cập đến vấn đề năng suất lao động. Theo ông, năng suất lao động của khu vực ngoài nhà nước chưa cao.
Khu vực này bao gồm rất nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa và một khu vực phi chính thức với 5 triệu đơn vị sản xuất kinh doanh cá thể, nhưng hiệu suất làm việc thấp, dẫn đến dù Việt Nam hội nhập sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu nhưng chất lượng hội nhập thấp. Công nghiệp hóa của Việt Nam chưa phát triển mạnh mẽ, mà vẫn chỉ ở tính chất gia công, lắp ráp.
Bổ sung thêm, Tiến sĩ Nguyễn Quỳnh Trang đánh giá, yếu tố phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế là “Năng suất nhân tố tổng hợp” - TFP (chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và lao động) ở Việt Nam hiện đang khá thấp. Nguyên nhân đến từ việc “bị cản trở bởi môi trường thể chế, hiệu quả quản lý đầu tư công chưa cao, môi trường kinh doanh và năng lực quản trị doanh nghiệp còn yếu và năng lực công nghệ của doanh nghiệp thấp, chậm đổi mới sáng tạo”.

Tiến sĩ Nguyễn Quỳnh Trang, giảng viên Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng hiệu quả sử dụng vốn và lao động ở Việt Nam còn thấp.
Thể chế - động lực then chốt trong kỷ nguyên mới
Cũng tại Hội thảo "Động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong Kỷ nguyên mới", Tiến sĩ Phạm Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới cho rằng, thế giới ngày càng phức tạp, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy phát triển, có chiến lược linh hoạt, đột phá và hiệu quả, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, từng bước khẳng định vị thế quốc gia.
Rõ ràng, xu hướng AI, công nghệ số đang định hình lại năng lực sản xuất toàn cầu. Xu hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững trở thành tiêu chuẩn mới, đòi hỏi Việt Nam thích ứng nhanh với những tiêu chuẩn mới về chuyển dịch năng lượng và kinh tế carbon thấp.
Chia sẻ tại hội thảo trên, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương chỉ ra, trong bối cảnh mới, chúng ta không thể tiếp tục dựa vào các động lực tăng trưởng truyền thống như khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ hay vốn đầu tư mở rộng. Những động lực này đã dần suy giảm hiệu quả và không còn phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
"Với mục tiêu tăng trưởng cao, bứt phá trong thời gian tới, Việt Nam cần kiến tạo những động lực hiện đại, bền vững, phù hợp với kỷ nguyên số và kỷ nguyên xanh, đồng thời tận dụng tốt các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế để bứt phá mạnh mẽ", ông Hiển đặt vấn đề về động lực tăng trưởng của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng cần phải kiến tạo những động lực tăng trưởng mới, hiện đại, bền vững.
Trong bối cảnh ấy, hoàn thiện thể chế được coi là động lực then chốt cho phát triển hiện đại, tạo môi trường minh bạch, công bằng để khơi thông mọi nguồn lực xã hội. Để những động lực này phát huy hiệu quả, Chính phủ đã và đang triển khai quyết liệt các chủ trương đột phá chiến lược, nổi bật là “bộ tứ trụ cột” theo các nghị quyết của Bộ Chính trị: đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; đột phá trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện; và phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Đây là những Nghị quyết quan trọng, mở ra “không gian tăng trưởng mới” cho Việt Nam.
Động lực mới cho tăng trưởng: Công nghệ, nhân lực, kinh tế tư nhân
Kế đến là phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số - đây là động lực hàng đầu để nâng cao năng suất và sức cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên lĩnh vực này ở Việt Nam chưa được đẩy mạnh.
Theo thống kê, những năm vừa qua, tỷ lệ chi cho nghiên cứu phát triển ở nước ta còn thấp, chỉ từ 0,4-0,5% GDP; các đề tài nghiên cứu không có đột phá; chưa mạnh dạn chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu, không thương mại hóa được sản phẩm… Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia ra đời với các giải pháp, nhiệm vụ sẽ giúp “giải phóng tư duy khoa học”; giúp Việt Nam làm chủ khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và tạo ra sức bật về tăng trưởng trong kỷ nguyên mới.

Khoa học, công nghệ sẽ tạo ra sức bật tăng trưởng trong kỷ nguyên mới.
Bàn về động lực tăng trưởng mới, tại hội thảo nêu trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Trung Thành, Hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội chỉ ra: Không quốc gia nào có thể phát triển dựa hoàn toàn vào mô hình vay mượn. Mỗi nền kinh tế cần kiến tạo một hệ động lực riêng, được xây dựng từ nội lực nhưng phải được nuôi dưỡng bằng tri thức toàn cầu.
Động lực mới cần phải có là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, kinh tế số, kinh tế xanh và quản trị quốc tế. Bộ Chính trị cũng đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, coi đây là một động lực trung tâm để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Giáo dục là nền tảng cho mọi sự phát triển.
Cuối cùng, một động lực quan trọng khác được Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương chỉ ra, đó là khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra tư duy mới về phát triển kinh tế tư nhân, đánh giá đúng vai trò của doanh nghiệp ngoài nhà nước, và đặt khu vực này ở trọng tâm trong quá trình phát triển đất nước.
Cùng với đó, Nghị quyết 198/2025/QH15 của Quốc hội đã cụ thể hóa các cơ chế, chính sách đặc biệt để hiện thực hóa các cơ chế, chính sách cho doanh nghiệp tư nhân phát triển. Đầu tháng 9/2025, Mô hình Toàn cảnh kinh tế tư nhân đã ra đời, nơi tập hợp những trí thức, doanh nhân trong và ngoài nước, sẽ thực hiện mục tiêu kiến tạo 200 doanh nghiệp quốc gia lớn mạnh.

Kinh tế tư nhân là lực lượng hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng bền vững của Việt Nam. (Ảnh: THÀNH ĐẠT)
Với tầm nhìn chiến lược, khát vọng phát triển và những động lực mới đang được kiến tạo, kinh tế Việt Nam có cơ sở để bứt phá mạnh mẽ, vững bước trên con đường thực hiện mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra.