Kiến tạo nền giáo dục hiện đại cho khát vọng phát triển đất nước

Giáo dục - đào tạo tiếp tục được Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng khẳng định là 'quốc sách hàng đầu', đồng thời là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hiện thực hóa mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Học sinh Trường THCS Cầu Giấy hào hứng với giờ học tại phòng thực hành STEM Innovation 57. Ảnh: Tiến Khoa

Học sinh Trường THCS Cầu Giấy hào hứng với giờ học tại phòng thực hành STEM Innovation 57. Ảnh: Tiến Khoa

Những chuyển biến đáng ghi nhận

Những năm gần đây, hệ thống chính sách và thể chế về giáo dục - đào tạo được rà soát, sửa đổi và từng bước hoàn thiện; nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược và Chương trình mục tiêu quốc gia đã được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở các cấp học.

Mạng lưới cơ sở giáo dục quốc dân được mở rộng. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước hiện có 38.260 cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông công lập, khoảng 1.900 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 264 cơ sở giáo dục đại học, góp phần bảo đảm cơ hội học tập ngày càng bình đẳng hơn. Giáo dục mầm non đạt tỉ lệ huy động trẻ đến trường hơn 93,6%; việc phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi đã được hoàn thành ở hầu hết các địa phương.

Ở bậc phổ thông, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới: Chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất, năng lực học sinh; đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá. Nhiều môn học và hoạt động được gắn với thực tiễn, giúp học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo.

Giáo dục đại học tiếp tục mở rộng quy mô và từng bước nâng cao chất lượng. Công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng trong hệ thống giáo dục đại học đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng đi vào thực chất, mang lại tác động tích cực cho cải tiến và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở giáo dục đại học. Năm 2024, Việt Nam có 6 trường vào QS World University Rankings, 17 trường vào QS Asia University Rankings và 9 trường lọt vào bảng xếp hạng The World University Rankings 2025.

Giáo dục nghề nghiệp cũng có bước tiến khi Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn 2045 được ban hành, giúp định hướng phát triển nhân lực có kỹ năng nghề. Tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ tăng, đóng góp tích cực cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đội ngũ nhà giáo tiếp tục được chuẩn hóa, cơ sở vật chất được đầu tư mạnh hơn. Nhiều trường học đã ứng dụng công nghệ thông tin, hình thành mô hình học tập linh hoạt, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

Bên cạnh thành tựu, quá trình đổi mới giáo dục - đào tạo vẫn tồn tại không ít hạn chế, bất cập cần được khắc phục để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn tới.

Trước hết, thể chế và chính sách phát triển giáo dục còn thiếu đồng bộ, chậm điều chỉnh trước bối cảnh mới. Một số chiến lược, quy hoạch quan trọng ban hành chậm; việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng đôi khi chưa kịp thời, ảnh hưởng đến hiệu quả triển khai.
Cơ hội tiếp cận giáo dục vẫn chênh lệch giữa các vùng, miền. Ở vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, tình trạng thiếu trường, lớp, thiết bị dạy học và giáo viên còn phổ biến. Chênh lệch về điều kiện học tập giữa đô thị và nông thôn vẫn là “khoảng cách khó thu hẹp” nếu không có cơ chế ưu tiên đặc thù.

Việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 còn lúng túng, đặc biệt trong khâu chuẩn bị đội ngũ và cơ sở vật chất. Nhiều địa phương còn thiếu giáo viên phổ thông; trong khi đó, việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên các môn học mới như Âm nhạc, Mỹ thuật, Tin học còn gặp khó. Nhận thức và phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực ở một bộ phận giáo viên, học sinh vẫn chậm đổi mới.

Ở bậc đại học, quản trị tự chủ chưa đồng bộ, chịu sự chi phối của nhiều cơ quan chủ quản khác nhau. Hạ tầng nghiên cứu còn yếu, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ thấp. Kinh phí đầu tư còn dàn trải, chưa tạo được trọng điểm để hình thành các đại học nghiên cứu ngang tầm khu vực. Liên kết giữa nhà trường - doanh nghiệp - Nhà nước còn lỏng lẻo, khiến kết quả đào tạo chưa gắn chặt với nhu cầu nhân lực thực tế.

Đối với giáo dục nghề nghiệp, quy mô còn nhỏ, chất lượng đào tạo chưa cao, cơ cấu ngành nghề chưa phù hợp; năng lực giảng dạy và trang thiết bị ở nhiều cơ sở còn lạc hậu. Gắn kết giữa đào tạo nghề và thị trường lao động chưa thực sự hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao cho chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Hoạt động STEM tại Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam. Ảnh: TN

Hoạt động STEM tại Trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam. Ảnh: TN

Tầm nhìn và lộ trình phát triển giáo dục Việt Nam

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV đặt mục tiêu xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế”. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, cần tập trung vào một số định hướng trọng tâm sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và chính sách phát triển giáo dục. Đây là yêu cầu hàng đầu để khắc phục tình trạng manh mún, thiếu đồng bộ hiện nay. Cần rà soát, sửa đổi toàn diện ba đạo luật trụ cột (Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp), tạo hành lang pháp lý thống nhất cho đổi mới chương trình, quản trị và đầu tư. Đồng thời, cần có cơ chế đặc thù cho phát triển giáo dục ở vùng khó khăn, miền núi, hải đảo - nơi đang chịu thiệt thòi về cơ sở vật chất và đội ngũ.

Thứ hai, đầu tư mạnh cho hạ tầng số và chuyển đổi số trong giáo dục. Trong thời đại trí tuệ nhân tạo, giáo dục không thể phát triển nếu vẫn dựa trên mô hình lớp học truyền thống. Cần đầu tư đồng bộ trường học thông minh, phòng học chức năng, nền tảng học liệu số và thư viện số dùng chung. Việc ứng dụng AI, dữ liệu lớn, mô hình lớp học kết nối sẽ mở rộng cơ hội học tập, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.

Thứ ba, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý như “trụ cột” của đổi mới. Cần xây dựng chiến lược phát triển giáo viên quốc gia, bảo đảm chuẩn nghề nghiệp theo thông lệ quốc tế, đồng thời cải thiện chế độ đãi ngộ, thu hút nhân tài sư phạm về vùng khó. Nhà giáo phải thực sự là trung tâm của quá trình đổi mới, được đào tạo liên tục để thích ứng với phương pháp giảng dạy hiện đại.

Thứ tư, thúc đẩy tự chủ và đổi mới quản trị đại học. Trao quyền tự chủ đầy đủ, gắn với trách nhiệm giải trình; khuyến khích các trường xây dựng chiến lược phát triển riêng, gắn nghiên cứu với sản xuất, kinh doanh; hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo trong đại học. Nhà nước cần đầu tư trọng điểm cho một số đại học nghiên cứu theo chuẩn khu vực, tạo “đầu tàu tri thức” cho phát triển khoa học - công nghệ quốc gia.

Thứ năm, phát triển hệ sinh thái học tập suốt đời. Trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh, học tập suốt đời là yêu cầu tất yếu của xã hội tri thức. Cần mở rộng mạng lưới trung tâm học tập cộng đồng, học viện mở, học trực tuyến đại chúng; khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo lại và nâng cao kỹ năng cho người lao động.

Thứ sáu, bảo đảm công bằng trong giáo dục. Giáo dục không chỉ là con đường phát triển cá nhân mà còn là thước đo công bằng xã hội. Vì vậy, cần ưu tiên nguồn lực cho giáo dục mầm non, phổ thông vùng khó; hỗ trợ học sinh yếu thế, khuyết tật; đồng thời mở rộng chính sách học bổng, tín dụng ưu đãi để mọi công dân đều có cơ hội học tập và phát triển.

Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV đã thể hiện rõ tầm nhìn của Đảng về một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, công bằng, gắn với phát triển con người, khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức. Đó không chỉ là chiến lược phát triển giáo dục, mà còn là chiến lược phát triển quốc gia. Để tầm nhìn ấy trở thành hiện thực, cần có quyết tâm chính trị cao, đầu tư tương xứng về nguồn lực, cùng tinh thần đổi mới, sáng tạo từ mỗi thầy cô, mỗi người học và toàn xã hội.
Khi tri thức được coi là sức mạnh, và con người được đặt ở trung tâm của mọi chính sách, giáo dục Việt Nam sẽ thực sự trở thành động lực kiến tạo tương lai.

Tiến sĩ Phạm Ngọc Hùng

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/kien-tao-nen-giao-duc-hien-dai-cho-khat-vong-phat-trien-dat-nuoc-723837.html