Kiến tạo mô hình tăng trưởng tự chủ và nâng cao năng suất quốc gia

Tham gia góp ý Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, chuyên gia kinh tế, giảng viên Trường đại học Nguyễn Tất Thành, cho rằng, cần tập trung vào đột phá năng suất, nâng tỷ lệ nội địa hóa và phát huy vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp trong xây dựng mô hình tăng trưởng tự chủ, bền vững.

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, trong bối cảnh toàn cầu chuyển động nhanh, cạnh tranh chiến lược gay gắt và các chuỗi giá trị đang được tái định hình, việc nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) và tăng tỷ lệ nội địa hóa (DVA) là yêu cầu mang tính chiến lược đối với năng lực tự chủ và sức mạnh nội sinh của đất nước.

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đã xác định rõ: Đến năm 2030, phấn đấu TFP đóng góp trên 55% vào tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng năng suất lao động bình quân đạt 8,5%/năm, và tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm khoảng 28% GDP, trong khi kinh tế số đạt khoảng 30% GDP. Đây là những chỉ tiêu thể hiện tầm nhìn chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, gắn khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo với năng suất và hiệu quả.

 Doanh nghiệp FDI với dây truyền tự động hiện đại hóa - động lực quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại, hóa và hội nhập sâu của Việt Nam. (Ảnh: MINH PHƯƠNG)

Doanh nghiệp FDI với dây truyền tự động hiện đại hóa - động lực quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại, hóa và hội nhập sâu của Việt Nam. (Ảnh: MINH PHƯƠNG)

Ông Điền cho rằng, những thành tựu kinh tế giai đoạn 2021-2025 với tăng trưởng bình quân đạt 6,3%/năm, quy mô GDP ước đạt trên 510 tỷ USD, GDP bình quân đầu người khoảng 5.000 USD, cho thấy Việt Nam đang tiến gần nhóm thu nhập trung bình cao. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt khoảng 47%, phản ánh những nỗ lực trong cải thiện chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, năng suất lao động tăng bình quân 5,3%/năm, thấp hơn mục tiêu đề ra, hệ số ICOR còn cao (6,9), cho thấy hiệu quả đầu tư chưa tương xứng với quy mô nguồn lực. Tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp chế biến, chế tạo dù được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên phụ liệu và linh kiện, khiến giá trị gia tăng trong nước còn hạn chế và sức lan tỏa công nghệ chưa cao. Đây là điểm nghẽn căn bản mà Đại hội XIV cần tháo gỡ để hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững.

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, muốn nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp và tỷ lệ nội địa hóa không thể chỉ trông chờ vào nguồn vốn hay vào thị trường, mà phải được dẫn dắt bởi ba động lực chiến lược: thể chế đổi mới, liên kết chuỗi giá trị và nguồn nhân lực sáng tạo.

Trước hết, về thể chế, cần hoàn thiện đồng bộ cơ chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và quản trị dựa trên năng suất. Dự thảo Báo cáo Chính trị đã đề ra định hướng xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia, phát triển mạnh công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo (AI), chuyển đổi số toàn diện, song song với việc đơn giản hóa thủ tục, phân cấp, phân quyền triệt để để tháo gỡ điểm nghẽn thể chế. Cần sớm hình thành hệ sinh thái năng suất quốc gia, bao gồm quỹ đổi mới sáng tạo vùng, mạng lưới R&D liên kết nhà nước-doanh nghiệp-viện trường, và cơ chế “sandbox” thử nghiệm các công nghệ mới. Thể chế phải chuyển từ “xin-cho” sang “khuyến khích-hậu kiểm”, coi hiệu quả năng suất là tiêu chí đánh giá hiệu quả chính quyền và doanh nghiệp.

Tiếp đó, về liên kết chuỗi giá trị và nội địa hóa, cần coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, như văn kiện đã khẳng định. Phát triển các tập đoàn tư nhân đa ngành có năng lực cạnh tranh quốc tế, đi đôi với chính sách buộc các doanh nghiệp FDI phải công khai lộ trình chuyển giao công nghệ và nâng tỷ lệ nội địa hóa theo cam kết cụ thể.

Song song đó, cần đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt trong 5 lĩnh vực then chốt: cơ khí chính xác, linh kiện điện tử, vật liệu mới, dệt may-da giày và thiết bị năng lượng tái tạo. Việc hình thành “khu công nghiệp nội địa hóa sâu”, nơi doanh nghiệp đạt tỷ lệ nội địa trên 60% được ưu đãi về thuế, đất và tín dụng, sẽ là cú hích cho năng lực sản xuất trong nước. Nhà nước cần phát triển nền tảng dữ liệu cung-cầu linh kiện quốc gia để kết nối doanh nghiệp Việt Nam với chuỗi sản xuất toàn cầu, qua đó biến nội địa hóa thành trục xoay của hội nhập mới.

Cuối cùng, con người là nhân tố quyết định năng suất. Cần thực hiện mô hình “Ba nhà đồng hành: Nhà nước-Nhà trường-Nhà doanh nghiệp”, gắn đào tạo với nhu cầu cụ thể của nền công nghiệp và kinh tế số. Đổi mới giáo dục nghề nghiệp theo hướng đào tạo nghề kép, chuẩn kỹ năng quốc tế, phát triển lực lượng kỹ sư, công nhân kỹ thuật đáp ứng tiêu chuẩn công nghiệp 4.0. Chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài khoa học-công nghệ phải gắn với thành tích đổi mới, chứ không chỉ bằng thâm niên. Đồng thời, hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong chuyển đổi số, giúp giảm chi phí, nâng năng suất và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tiến sĩ Điền nhấn mạnh, cần sớm ban hành Chiến lược quốc gia về năng suất và nội địa hóa giai đoạn 2026-2035, coi đây là cấu phần trung tâm trong Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm tới. Mỗi bộ, ngành, địa phương phải có chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp và tỷ lệ nội địa cụ thể, được đo lường, giám sát thường xuyên thông qua hệ thống dữ liệu quốc gia. Việc này không chỉ giúp kiểm soát tiến độ nâng năng suất mà còn tạo áp lực cải cách thực chất, khuyến khích các địa phương phát triển mô hình “kinh tế tự chủ vùng” dựa trên sáng tạo và liên kết sản xuất.

Từ góc độ dài hạn, Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền nhận định, việc nâng năng suất nhân tố tổng hợp và tỷ lệ nội địa còn là điều kiện để củng cố nền kinh tế tự chủ chiến lược mà Đảng đã xác định. Một nền kinh tế có năng suất cao và tỷ lệ nội địa hóa sâu là nền kinh tế ít bị tổn thương trước biến động bên ngoài, có khả năng kiến tạo giá trị từ tri thức thay vì phụ thuộc vào tài nguyên hay lao động giá rẻ. Đó cũng là nền tảng để Việt Nam thực sự bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, như tinh thần mà Dự thảo Báo cáo Chính trị đã nêu: “Tự chủ chiến lược, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên mới vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.”

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, để hiện thực hóa các mục tiêu nâng cao năng suất và tỷ lệ nội địa hóa mà Dự thảo Báo cáo Chính trị đã đề ra, yếu tố quyết định nằm ở doanh nghiệp - chủ thể trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng và đổi mới sáng tạo. Khi doanh nghiệp được trao vai trò trung tâm, thể chế kinh tế sẽ vận hành năng động hơn, chuỗi sản xuất, cung ứng trong nước mới có thể phát triển theo chiều sâu.

Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV đã khẳng định rõ: “Phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận cấu thành quan trọng.”

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, đây là định hướng có ý nghĩa chiến lược, đặt nền tảng cho việc hình thành cơ chế cộng hưởng giữa ba khu vực doanh nghiệp, hướng tới mô hình “tam giác phát triển” trong nền kinh tế tự chủ.

Ông cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu hóa bước sang giai đoạn cạnh tranh chiến lược mới, Việt Nam phải hình thành những doanh nghiệp dẫn dắt quốc gia, có khả năng mở đường cho công nghệ, đổi mới sáng tạo và hội nhập sâu chuỗi giá trị toàn cầu. Sức mạnh của nền kinh tế không chỉ đến từ từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà từ sự cộng hưởng và lan tỏa giữa các khu vực - doanh nghiệp nhà nước tạo nền, FDI truyền công nghệ, và tư nhân bứt phá sáng tạo. Đây chính là trục động lực mới để Việt Nam tiến vào kỷ nguyên phát triển tự chủ, sáng tạo và hội nhập bền vững.

 Tăng tỷ lệ nội địa hóa là hướng đi quan trọng để củng cố năng lực tự chủ kinh tế. (Ảnh: HẢI NAM)

Tăng tỷ lệ nội địa hóa là hướng đi quan trọng để củng cố năng lực tự chủ kinh tế. (Ảnh: HẢI NAM)

Sau hơn 40 năm đổi mới, Việt Nam đã có hơn 900 nghìn doanh nghiệp hoạt động, trong đó khu vực tư nhân đóng góp khoảng 45% GDP và 85% việc làm trong nền kinh tế. Khu vực FDI chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu, trong khi doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ những lĩnh vực hạ tầng, năng lượng, tài chính trọng yếu. Tuy nhiên, mối liên kết giữa ba khu vực này còn lỏng lẻo: doanh nghiệp nhà nước chưa thật sự phát huy vai trò dẫn dắt, khu vực FDI chưa lan tỏa công nghệ hiệu quả, và khu vực tư nhân vẫn chủ yếu nhỏ, phân tán, thiếu năng lực đổi mới và hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu.

Vì vậy, theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, Việt Nam cần chuyển từ mô hình “các khu vực song song” sang “mô hình ba trụ cột cộng hưởng.”

Trước hết, doanh nghiệp nhà nước phải thực sự trở thành doanh nghiệp dẫn dắt, không chỉ ở quy mô tài sản mà ở năng lực mở đường cho công nghệ, hạ tầng và chuỗi cung ứng. Các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước trong năng lượng, viễn thông, logistics, tài chính cần đóng vai trò “kiến trúc sư nền tảng”, đầu tư hạ tầng thiết yếu, dữ liệu và năng lượng sạch để khu vực tư nhân và FDI có thể phát triển trên nền đó. Cần khẩn trương thực hiện cổ phần hóa đi đôi với tái cấu trúc quản trị, áp dụng tiêu chuẩn ESG, xếp hạng tín nhiệm quốc tế và tách biệt rõ giữa chức năng kinh doanh và công ích.

Thứ hai, khu vực FDI cần được tái định vị từ “đối tác sản xuất” sang “đối tác phát triển”. Chính sách thu hút đầu tư phải đi kèm điều kiện bắt buộc về chuyển giao công nghệ, tỷ lệ nội địa hóa và sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam. Cần hình thành liên minh FDI-nội địa, trong đó tập đoàn FDI lớn đóng vai trò “đầu kéo”, còn doanh nghiệp Việt đảm nhận vai trò vệ tinh sản xuất, cung ứng linh kiện, dịch vụ kỹ thuật và logistics. Việc xây dựng chuỗi công nghiệp hỗ trợ nội địa gắn với các tập đoàn FDI không chỉ giúp tăng tỷ lệ giá trị gia tăng trong nước, mà còn là cách nhanh nhất để nâng năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thứ ba, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phải trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo và tạo giá trị mới. Dự thảo đã nêu rõ yêu cầu “phát triển các tập đoàn tư nhân Việt Nam lớn, mạnh, ngang tầm khu vực và thế giới”. Để làm được, cần có chính sách chọn lọc và nuôi dưỡng doanh nghiệp trụ cột trong từng lĩnh vực: công nghệ số, nông nghiệp công nghệ cao, logistics, năng lượng tái tạo, sản xuất vật liệu và tài chính xanh. Những doanh nghiệp này phải được trao không gian chính sách tương tự “sandbox đổi mới” để thử nghiệm mô hình kinh doanh mới, được tiếp cận dữ liệu, tín dụng và hạ tầng ưu tiên. Nhà nước cần đồng hành với doanh nghiệp tư nhân trong chiến lược xuất khẩu sản phẩm công nghệ Việt, xây dựng thương hiệu quốc gia và năng lực cạnh tranh vùng.

Thứ tư, cần hình thành cơ chế phối hợp ba khu vực trên nền tảng dữ liệu và chuỗi giá trị chung. Một “mạng lưới doanh nghiệp quốc gia” nên được hình thành, kết nối doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và FDI theo các ngành ưu tiên như năng lượng sạch, vật liệu mới, bán dẫn, logistics và công nghiệp hỗ trợ. Hệ thống dữ liệu mở về cung-cầu, đầu tư và công nghệ sẽ giúp các khu vực chia sẻ thông tin, giảm trùng lặp và thúc đẩy hợp tác. Cùng với đó, cần thiết lập Quỹ đồng đầu tư công-tư-FDI để tài trợ cho các dự án chiến lược có tính lan tỏa và đổi mới cao, đặc biệt ở cấp vùng công nghiệp.

Thứ năm, phát huy vai trò của cộng đồng doanh nhân Việt Nam như lực lượng nòng cốt của tự chủ kinh tế. Văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh, tinh thần hợp tác và trách nhiệm xã hội phải được xem là nền tảng mềm của năng lực cạnh tranh quốc gia. Cần xây dựng các chương trình đào tạo và tôn vinh “doanh nghiệp dẫn dắt quốc gia” theo tiêu chí đóng góp thực chất: đổi mới sáng tạo, tạo việc làm, xuất khẩu công nghệ và phát triển bền vững.

Theo Tiến sĩ Huỳnh Thanh Điền, sự cộng hưởng giữa ba khu vực - doanh nghiệp nhà nước tạo nền, FDI truyền công nghệ, tư nhân bứt phá sáng tạo sẽ hình thành “tam giác phát triển mới” cho Việt Nam trong kỷ nguyên tự chủ và hội nhập sâu. Khi ba khu vực không còn vận hành riêng rẽ mà trở thành một hệ sinh thái cạnh tranh-hợp tác-lan tỏa, nền kinh tế Việt Nam sẽ có sức mạnh nội sinh mới, đủ năng lực vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tiến lên nhóm nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển vào năm 2045 đúng tinh thần mà Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XIV đã xác định: “Tự chủ, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên mới.”

MINH PHƯƠNG - KHÁNH LAN

Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/kien-tao-mo-hinh-tang-truong-tu-chu-va-nang-cao-nang-suat-quoc-gia-post921374.html