Kiểm toán đất rừng: Xây dựng hệ thống dữ liệu lớn và tiêu chí phù hợp
Kết quả kiểm toán cho thấy, các sai phạm trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thu - chi tiền dịch vụ môi trường rừng, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng vẫn diễn ra tại nhiều địa phương. Một số cơ chế chính sách, văn bản quản lý khi áp dụng vào thực tế bộc lộ nhiều bất cập dẫn đến thất thoát, lãng phí đất đai.

Kết quả cuộc kiểm toán Chuyên đề quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam và các địa phương chỉ ra nhiều bất cập, đặc biệt là trong công tác trồng rừng thay thế. Ảnh: TL
Nhiều sai phạm, bất cập
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay, các công ty lâm nghiệp trên toàn quốc đã thực hiện giao khoán gần 460.000ha rừng, tương đương khoảng 27% tổng diện tích được quản lý. Trong đó, giao khoán rừng, đất lâm nghiệp, vườn cây và mặt nước nuôi trồng thủy sản theo Nghị định số 01/CP (ngày 04/01/1995) chiếm 68%, theo Nghị định số 135/2005/NĐ-CP (ngày 08/11/2005) chiếm 29%, còn theo Nghị định số 168/2016/NĐ-CP (ngày 27/12/2016) chỉ khoảng 3% tổng diện tích rừng giao khoán.
Việc giao khoán đã tạo nên chuyển biến tích cực trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và phát triển lâm nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách giao khoán vẫn còn bộc lộ những bất cập và hạn chế, đặc biệt là việc quản lý đất rừng gắn với sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của các công ty nông - lâm nghiệp.
Việc quản lý, sử dụng đất đai có nguồn gốc từ lâm trường chưa thực sự phát huy hiệu quả, tình trạng sử dụng quỹ đất của Nhà nước để cho thuê, cho mượn, liên doanh liên kết, khoán trắng vẫn tiếp diễn. Việc sử dụng đất không đúng đối tượng, không đúng mục đích vẫn còn xảy ra khá phổ biến; lợi dụng ranh giới giữa rừng sản xuất là rừng trồng với rừng tự nhiên, rừng đặc dụng và rừng phòng hộ không rõ ràng để khai thác rừng không đúng pháp luật còn thường xuyên xảy ra.
Ngày 18/7/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 91/2024/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 156/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp, qua đó giải quyết những bất cập trong quá trình thực hiện các quy định về sử dụng đất rừng và phù hợp với kiến nghị của KTNN…
Ngoài ra, các nông - lâm trường, công ty lâm nghiệp chưa thực hiện tốt các nhiệm vụ về an sinh xã hội, nhất là các nhiệm vụ giải quyết vướng mắc về đất đai, nhất là đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc, bảo đảm ổn định xã hội và thực hiện tốt việc đổi mới quản lý và sử dụng đất đai, bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của pháp luật.
Kết quả cuộc kiểm toán Chuyên đề quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam và các địa phương cũng chỉ ra nhiều bất cập, đặc biệt là trong công tác trồng rừng thay thế. Nhiều diện tích rừng chưa được trồng theo phương án đưa ra do nợ tiền trồng rừng, đơn giá trồng rừng tại một số địa phương còn thiếu hạng mục công việc, không còn phù hợp. Số tiền trồng rừng thay thế đã quá hạn 12 tháng kể từ khi chủ dự án nộp nhưng chưa được sử dụng hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế.
Một số trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất, cho thuê toàn bộ diện tích đất rừng khi chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền trồng rừng thay thế; quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ sang mục đích khác để khai thác khoáng sản thuộc khu vực cấm khai thác khoáng sản trước khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp, nhưng không có quy định xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền trồng rừng thay thế. Việc không có quy định xử lý khi chậm nộp tiền đã gây ra sự bất bình đẳng về pháp luật giữa đơn vị tuân thủ pháp luật và đơn vị chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật.
KTNN cũng đã chỉ rõ vướng mắc trong việc thiếu quy định, hướng dẫn xác định hệ số (K1) đối với trữ lượng rừng trồng để làm cơ sở cho việc thực hiện trồng rừng thay thế, dẫn đến khó khăn trong xác định chi trả dịch vụ môi trường rừng. KTNN cũng lưu ý khi chuyển mục đích sử dụng rừng phục vụ hoạt động khai thác kinh tế, các địa phương cần phải đảm bảo kế hoạch trồng rừng thay thế và việc chi trả dịch vụ môi trường rừng cho các đối tượng thụ hưởng được thuận lợi, kịp thời…
Một số lưu ý khi thực hiện kiểm toán
Theo KTNN chuyên ngành II, thực tế qua kiểm toán cho thấy, tình trạng sử dụng đất không đúng mục đích, một số đơn vị được giao đất nông - lâm nghiệp nhưng sử dụng cho các mục đích khác như xây dựng công trình không liên quan hoặc cho thuê lại trái phép diễn ra phổ biến. Tình trạng lấn chiếm đất công và bỏ hoang đất diễn ra ở nhiều địa phương, gây lãng phí tài nguyên đất đai.
Khi triển khai kiểm toán, các Đoàn kiểm toán cần lưu ý công tác quản lý sử dụng tài sản đất đai tại các nông, lâm trường quốc doanh được đánh giá căn cứ theo nhiều quy định pháp luật như: Luật Đất đai số 45/2023/QH13 ngày 29/11/2013, Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14 ngày 15/11/2017; Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lâm nghiệp về một số nội dung như việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch, xây dựng phương án sử dụng đất; công tác đo đạc bản đồ, xác định ranh giới, mốc giới sử dụng đất; việc giao đất, cho thuê đất, thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai; kết quả cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các đoàn kiểm toán cần lưu ý đánh giá tình trạng khai thác, chuyển đổi đất rừng; việc thực hiện các cam kết bảo vệ rừng, trồng rừng thay thế; sử dụng đúng mục đích Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng; tình trạng chậm trễ trong việc thực hiện các cam kết về trồng rừng thay thế sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng; việc sử dụng đất giao cho doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp; đất bị lấn chiếm, bỏ hoang; việc đấu giá, cho thuê đất công; tình trạng chuyển đổi trái phép đất rừng, đất nông trường, đất trồng cây công nghiệp…
Hiện nay, KTNN chưa hoàn thiện hệ thống dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về rừng và đất rừng, do đó kiểm toán viên thiếu cơ sở để đối chiếu, chỉ đánh giá dựa trên các báo cáo do các cơ quan quản lý nhà nước về rừng và đất rừng cung cấp. Trong khí đó, khu vực rừng có quy mô rộng, địa hình hiểm trở gây khó khăn cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm tra thực địa. Việc xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu lớn về rừng và từng bước ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm quản lý, thông tin địa lý toàn cầu GIS vào hoạt động kiểm toán rừng là giải pháp tối ưu nhất giúp nâng cao hiệu quả kiểm toán.
Đồng thời, KTNN cần đẩy mạnh áp dụng loại hình kiểm toán hoạt động trong việc kiểm toán rừng và đất rừng, đồng thời xây dựng các tiêu chí kiểm toán phù hợp; chú trọng đến việc đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách, các chương trình/dự án liên quan đến rừng, đất rừng; kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về quản lý rừng, đất rừng./.