Khuyến nông cộng đồng thể hiện vai trò cầu nối, dẫn dắt nông dân thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa
Hiện nay, thị trường xuất khẩu gạo ngày càng đề cao yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm và tiêu chuẩn giảm phát thải. Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 (Đề án) giúp định hình lại ngành hàng lúa gạo.

Mô hình canh lúa chất lượng cao và giảm phát thải tại tỉnh An Giang. Ảnh Ánh Nguyệt.
Đề án với mục tiêu đến năm 2030 diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt 1 triệu ha; lượng gạo mang thương hiệu chất lượng cao, phát thải thấp chiếm hơn 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh…
Tăng lợi nhuận, giảm phát thải
Theo Phó Cục trưởng Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Thị Thu Hương, từ năm 2024 đến nay, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã thực hiện 354.839ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, đạt 197% mục tiêu đề ra. Các vùng chuyên canh giúp giảm giống gieo sạ từ 70 đến 100 kg/ha, giảm 20% phân đạm và nước tưới; 100% nông dân được tổ chức sản xuất theo hợp tác xã, có liên kết đầu vào và tiêu thụ; hơn 200.000 hộ áp dụng ít nhất 1 tiêu chí trong quy trình; thu nhập tăng thêm từ 13,4% trở lên; có 5.269ha được chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp tương đương với 19.200 tấn gạo”.
Qua đánh giá 11 mô hình sản xuất lúa chất lượng cao trong vụ hè thu 2025 với diện tích 543,5ha và 355 hộ tham gia cho thấy, lượng giống gieo sạ giảm từ 50-65%; lượng phân đạm giảm trung bình 31,3%; giảm 1-3 lần phun thuốc bảo vệ thực vật; giảm đáng kể lượng nước sử dụng, đáp ứng tiêu chí giảm phát thải.
Từ năm 2024 đến nay khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã thực hiện 354.839 ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, đạt 197% mục tiêu đề ra.
Phó Cục trưởng Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Thị Thu Hương
Ngoài ra, 100% mô hình thu gom rơm rạ, trong đó 5 mô hình bán rơm với giá từ 307 nghìn đến 1 triệu đồng/ha, phần còn lại dùng làm phân bón hoặc ủ gốc cho cây; chi phí sản xuất giảm từ 1,7-4,9 triệu đồng/ha so ngoài mô hình; lợi nhuận từ 14,5-36,3 triệu đồng/ha.
Trung tâm Khuyến nông tỉnh An Giang cho biết, để thực hiện tốt Đề án, thời gian qua tỉnh đã chủ động chỉ đạo triển khai các mô hình thí điểm với diện tích 1.417ha. Trong đó, mô hình thí điểm tại tỉnh Kiên Giang (cũ) với 100% diện tích được cơ giới hóa đồng bộ trong gieo sạ; sử dụng tiết kiệm phân bón; lắp đặt các thiết bị theo dõi mực nước để giảm phát thải; thu gom rơm hoặc cày vùi rơm rạ kết hợp xử lý bằng chế phẩm vi sinh.
Các mô hình thí điểm thực hiện có năng suất trung bình 8,2 tấn/ha, giá bán 6.700 đồng/kg (riêng lúa ĐS1 là 8.000 đồng/kg), thu nhập trung bình 59,69 triệu đồng/ha, lợi nhuận đạt 38 triệu đồng/ha. Trong đó, lúa ĐS1 đạt lợi nhuận 55,5 triệu đồng/ha, tăng hơn so với lúa đối chứng trung bình 10 triệu đồng/ha. Ngoài hiệu quả kinh tế, lượng phát thải khí nhà kính giảm từ 7,56 tấn CO2/ha đến 15,84 tấn CO2/ha.
Vai trò của khuyến nông cộng đồng
Để góp phần cho những thành công đó là nhờ có sự vào cuộc mạnh mẽ của hệ thống khuyến nông cộng đồng. Lực lượng này là những mắt xích then chốt, đóng vai trò cầu nối, dẫn dắt nông dân góp phần hiện thực hóa các mục tiêu của Đề án. Đến tháng 6/2025, toàn vùng có 1.013 tổ khuyến nông cộng đồng và 10.361 thành viên.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng cho biết: “Thời gian qua, lực lượng này đã thể hiện tốt vai trò là kênh kết nối trực tiếp giữa người nông dân, hợp tác xã với doanh nghiệp, tổ chức khoa học-công nghệ, tài chính và thị trường trong thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa. Qua đó, bảo đảm việc tổ chức lại sản xuất gắn với chuỗi giá trị, thúc đẩy liên kết “bốn nhà”. Bên cạnh đó, họ cũng là những “cánh tay nối dài” của ngành nông nghiệp địa phương, đóng vai trò dẫn dắt, hướng dẫn và đồng hành cùng nông dân”.
Không những vậy, lực lượng khuyến nông cộng đồng còn là đầu mối tổ chức các hoạt động tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn, phổ biến quy trình canh tác bền vững, giám sát phát thải, xử lý rơm rạ; hỗ trợ nông dân tổ chức lại sản xuất, nâng cao thu nhập, bảo vệ môi trường và xây dựng thương hiệu gạo Việt xanh phát thải thấp; tiếp nhận và chuyển giao các nguồn lực, công nghệ, giải pháp từ doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước vào sản xuất.
Việc hoạt động hiệu quả của mạng lưới khuyến nông cộng đồng đã góp phần tăng cường mối liên kết giữa nông dân-hợp tác xã-doanh nghiệp nhằm thúc đẩy việc hình thành vùng nguyên liệu tập trung. Do đó, khuyến nông trở thành lực lượng nòng cốt trong việc tổ chức sản xuất trong chuyển giao kỹ thuật và giúp nhân dân thay đổi phương thức canh tác.
Thời gian qua, lực lượng này đã thể hiện tốt vai trò là kênh kết nối trực tiếp giữa người nông dân, hợp tác xã với doanh nghiệp, tổ chức khoa học-công nghệ, tài chính và thị trường trong thực hiện Đề án. Qua đó, bảo đảm việc tổ chức lại sản xuất gắn với chuỗi giá trị, thúc đẩy liên kết “bốn nhà”.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng
Bên cạnh đó, các mô hình thí điểm, dự án khuyến nông và hợp tác PPP đã minh chứng rõ ràng về hiệu quả, giúp nông dân giảm chi phí, tăng năng suất, cải thiện thu nhập, từ đó tự nguyện áp dụng và nhân rộng. Đồng thời với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật đã giảm sử dụng vật tư nông nghiệp, hạn chế đốt rơm rạ, giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó biến đổi khí hậu.
Bà Đoàn Thị Hải, tổ khuyến nông cộng đồng xã Tân Hội (An Giang) cho biết, từ mô hình thí điểm, cán bộ khuyến nông cộng đồng đã lan tỏa mô hình ra các hộ khác và hợp tác xã với diện tích 200ha. Khuyến nông cộng đồng giúp nông dân tiếp cận các quy trình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải như: tưới ngập khô xen kẽ, cơ giới hóa, thu gom và tiêu hủy rơm rạ; vận động, hướng dẫn nông dân áp dụng công nghệ mới giúp tối đa hóa nguồn lực, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí.
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng, thời gian tới các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp cần ban hành quy trình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp; ban hành quy chế liên kết chuỗi, hợp trợ hợp tác xã và doanh nghiệp; hỗ trợ quảng bá gạo chất lượng cao, phát thải thấp.
Đồng thời xây dựng kế hoạch sản xuất theo vùng sinh thái, gắn với thị trường tiêu thụ; rà soát diện tích mở rộng, bảo đảm mục tiêu Đề án; hỗ trợ hợp tác xã nâng cao năng lực, cơ giới hóa sản xuất; liên kết sản xuất với nông dân để xây dựng vùng nguyên liệu và ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm; mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu gạo chất lượng cao và gạo Việt xanh phát thải thấp; hỗ trợ hợp tác xã và nông dân áp dụng quy trình, chứng nhận GAP, hữu cơ.
Trao đổi về vấn đề này, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng cho rằng, cần tăng cường phổ biến đến từng địa phương, hợp tác xã và nông dân về các quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp; tiếp tục triển khai các dự án khuyến nông Trung ương, các mô hình hợp tác PPP về sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp nhằm khuyến cáo, nhân rộng ở các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Cùng với đó, cần ưu tiên kinh phí cho hoạt động đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cho lực lượng khuyến nông, nhất là khuyến nông cộng đồng về kỹ thuật canh tác lúa phát thải thấp, kỹ năng truyền thông, vận động nhân dân và giám sát phát thải; bố trí kinh phí và trang thiết bị cần thiết để lực lượng khuyến nông cộng đồng đảm nhận nhiệm vụ đo đạc, giám sát và báo cáo phát thải tại cơ sở, góp phần hình thành hệ thống thống nhất, minh bạch…