Khúc giao hòa giữa truyền thống và khát vọng
Giữa đại ngàn Như Xuân, những thanh âm mộc mạc của Chậm đò ho vẫn ngân lên qua tiếng hát người Thổ như hơi thở của núi rừng, của mùa màng trên nương, của bếp lửa nhà sàn, của hội xuân bản Mường... Dẫu thời cuộc đổi thay, làn điệu tình tứ ấy vẫn được nâng niu gìn giữ, như mạch ngầm văn hóa thấm đẫm tình yêu cội nguồn và khát vọng giữ gìn bản sắc dân tộc.

Tiết mục “Chậm đò ho” được trình diễn trong Lễ hội văn hóa dân tộc Thổ tại Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Hà Nội)
Tiếng hát giữa đại ngàn
Như Xuân, vùng đất đồng bào Thổ quần tụ đông nhất xứ Thanh, đang từng ngày chuyển mình mạnh mẽ trên bản đồ phát triển kinh tế - xã hội. Thế nhưng, giữa nhịp sống hiện đại rộn rã, đồng bào vẫn bền bỉ giữ lấy kho tàng văn hóa cha ông để lại. Trong đó, Chậm đò ho như một giai điệu mang linh hồn bản Mường, là nét văn nghệ đậm bản sắc đang được gìn giữ bằng cả tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Người dân nơi đây vẫn trìu mến gọi ông Lê Văn Cứu (86 tuổi, khu phố 1, thị trấn Yên Cát) là “thư viện sống” của văn hóa Thổ. Trong căn nhà gỗ mộc mạc, ông tỉ mẩn lật từng trang sách đã sờn, ghi chép suốt cả cuộc đời sưu tầm và biên soạn. Hơn mười năm qua, ông đã dày công chắp nhặt lại những mảnh ký ức, tạo nên kho tư liệu song ngữ Việt - Thổ quý giá.
Không cần đến danh xưng “nghệ nhân”, ông Cứu lặng thầm gìn giữ tiếng hát đồng bào. Với ông, Chậm đò ho không chỉ là một làn điệu dân ca, đó là tiếng ru con giữa lưng nương, là khúc hát bên ánh lửa hồng, là lời giao duyên tha thiết trong đêm hội làng. là âm thanh chảy trọn trong mạch sống người Thổ.
Cũng chung một niềm say mê ấy, ông Lê Ngọc Giới (63 tuổi, khu phố Trung Thành) gắn bó với vai trò người thổi kèn cho những buổi trình diễn Chậm đò ho. Cây kèn theo ông từ thuở còn đôi tám, giờ đã ngả màu thời gian, in dấu bao mùa lễ hội của bản làng.
Ông Giới tâm sự, để một tiết mục Chậm đò ho đúng nghĩa, cần đủ trống, chiêng, mõ, ống nứa, ống luồng... hòa quyện tạo nên bản hòa ca đậm đà. Những chàng trai, cô gái khoác lên mình bộ váy áo thổ cẩm sặc sỡ, nhịp nhàng hòa tiếng hát vào tiếng kèn, tất cả kết tinh thành một thanh âm độc bản, không thể lặp lại.
Di sản được gieo mầm từ niềm tin
Không cần hào nhoáng sân khấu hay ánh đèn rực rỡ, Chậm đò ho tồn tại như hơi thở văn hóa, như tiếng nói không lời của một dân tộc biết yêu và gìn giữ chính mình qua những giai điệu mộc mạc.
Bà Lê Thị Dung (79 tuổi, khu phố Thắng Sơn), một trong những người cao tuổi vẫn miệt mài gìn giữ làn điệu ấy, nhớ như in những lời ru từ thuở bé. Dẫu tuổi cao, bà vẫn đều đặn tham gia các lễ hội địa phương, vừa với tư cách là người thực hành, vừa là người gieo mầm và chuyển giao, góp phần truyền đi tình yêu bản sắc văn nghệ cho thế hệ sau.
Trong các dịp lễ hội lớn như “Ngày hội Sắc xuân các dân tộc Việt Nam” tổ chức tại Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (Hà Nội), huyện Như Xuân nhiều lần tạo dấu ấn bằng việc mang Chậm đò ho đến với công chúng. Không chỉ có các nghệ nhân lớn tuổi, nhiều bạn trẻ đã chủ động học hát, học múa, học cách thổi kèn, gõ trống, những nhạc cụ gắn liền với hình thức diễn xướng dân gian này.
Đặc biệt, với sự phối hợp giữa Sở VHTTDL Thanh Hóa và UBND huyện Như Xuân, nhiều lớp truyền dạy văn hóa phi vật thể đã được tổ chức theo Dự án 6 thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tại đây, hàng trăm học viên được hướng dẫn nghiên cứu, thực hành Chậm đò ho, múa Bắt nhái, sử dụng nhạc cụ dân tộc, gắn liền với hoạt động văn hóa - du lịch cộng đồng.
Từ lớp học truyền dạy nơi bản làng, đến các sân khấu không chuyên trong nhà văn hóa xã, Chậm đò ho đang được hồi sinh từng ngày. Nhiều em học sinh tại Yên Cát, Xuân Bình, Cát Vân... đã có thể biểu diễn thành thục trước bạn bè như một phần sinh hoạt ngoại khóa. Các tiết mục vừa thể hiện kỹ năng, vừa khơi dậy niềm tự hào dân tộc trong từng em nhỏ, những người đang tiếp nối mạch ngầm văn hóa từ thế hệ cha ông.
Không ít bạn trẻ trong số đó từng theo mẹ lên nương, từng nghe bà kể chuyện ngày mùa, từng được ru ngủ bằng lời ca xưa. Những giai âm ấy đã thấm vào máu thịt họ tự lúc nào, để hôm nay cất lên thành lời hát tiếp nối. Và cũng như ông Cứu, ông Giới, bà Dung, họ sẽ lại ngồi bên bếp lửa, dạy cho con cháu từng nhịp phách, từng hơi kèn, từng động dân vũ... như một phần ký ức không thể tách rời.
Chính quyền địa phương cũng đang tích cực hỗ trợ gìn giữ di sản bằng cách lồng ghép Chậm đò ho vào các sự kiện văn hóa - lễ hội, xây dựng tour du lịch cộng đồng và các sản phẩm trải nghiệm gắn với âm nhạc dân gian. Những bước đi ấy góp phần đưa Chậm đò ho ra khỏi phạm vi thôn bản, đến gần hơn với du khách và công chúng cả nước.
Không cần đến sân khấu lớn, không đợi sự vinh danh, điều thiêng liêng nhất mà Chậm đò ho mang lại chính là niềm tin. Như lời ông Giới: “Chỉ cần một người Thổ còn hát, còn kể, còn nhớ, thì bài hát ấy chưa bao giờ tắt”. Đó là niềm tin bền bỉ, đủ mạnh để giữ lại hồn cốt của một dân tộc giữa muôn vàn biến động thời đại.
Và hôm nay, khi tiếng trống chiêng lại rộn vang bên chân núi, khi những bước chân trẻ trung lại hòa vào điệu hát Chậm đò ho, chúng ta có thể tin rằng: Hành trình gìn giữ bản sắc dân tộc không bao giờ đơn độc. Trên những chuyến đò “chậm” vượt sóng thời gian, đồng bào Thổ vẫn lặng lẽ chở theo cả một kho tàng văn hóa - đồng ấm, trong lành và sống mãi với non sông.