Khu du kích Chi Lăng
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khu du kích Chi Lăng (huyện Lộc Bình cũ) là một trong ba căn cứ du kích nổi tiếng nhất của Lạng Sơn. Khu du kích Chi Lăng được biết đến không chỉ vì những thành tích xuất sắc trong chiến đấu mà còn vì đó là một khu du kích kiểu mẫu, được xây dựng hết sức quy mô, quy củ.

Khu du kích Chi Lăng và khu du kích Ba Sơn (Cao Lộc), Nà Thuộc (Đình Lập) trong bản đồ “Phát triển du kích chiến tranh”
Tháng 2 năm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Lạng Sơn bước vào giai đoạn quyêt liệt. Thực hiện ý đồ “đánh nhanh thắng nhanh” lên Việt Bắc, thực dân Pháp tăng viện quân, ra sức lấn chiếm, lập làng tề ở các địa phương trong tỉnh, mở rộng phạm vi không chế của chúng trên đường số 4, trong đó có Lộc Bình. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Lạng Sơn tháng 2 năm 1947 về xây dựng căn cứ du kích, trong đó “Thiết lập mỗi huyệ̣n một vùng kháng chiến; củng cố, xây dựng các khu du kich, đẩy mạnh du kích chiến tranh sau vùng địch hậu..”, Huyện ủy Lộc Bình đã nhanh chóng xúc tiến xây dựng căn cứ du kích để tạo hậu thuẫn vững chắc cho cuộc kháng chiến lâu dài. Căn cứ kháng chiến gồm ba xã: Tĩnh Gia, Tam Lộng, Tú Mịch, (nay thuộc xã Mẫu Sơn, Khuất Xá) được chọn để phát triển thành khu du kích chiến đấu của huyện. Trung tâm khu du kích ở xã Tam Gia, cách tỉnh lỵ Lạng Sơn 55 km, cách Quôc lộ 4 khoảng 27 km (theo tỉnh lộ 237 hiện nay), phía Bắc tiếp giáp với Trung Quốc. Nơi đây núi sông bao bọc, địa hình đồi núi cao, hiểm trở tạo thuận lợi cho đặt các vị trí tiền tiêu quan sát, bố trí trận địa đánh địch, đoạn sông Kỳ Cùng án ngữ đường dẫn vào khu du kích cũng góp phần hạn chế sự tấn công của địch khi mùa nước lên. Ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, khu căn cứ này đã phát huy tốt khả năng làm hậu thuẫn cho kháng chiến, tập kết lực lượng vũ trang và cất trữ lương thực. Đồng bào các dân tộc Tày, Nùng sinh sống nơi đây vốn có truyền thống yêu nước, kiên trung bất khuất, một lòng theo cách mạng nên luôn sẵn sàng ủng hộ, đóng góp sức người sức của cho kháng chiến và hết lòng giúp đỡ bộ đội. Để khơi gợi truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khu du kích được đặt tên theo địa danh lịch sử - nơi ghi dấu chiến công lẫy lừng của dân tộc ta trong chiến đấu chống quân Minh thế kỷ XV: Khu du kích Chi Lăng! Ngày 25/2/1947, dưới sự chủ trì của huyệ̣n Lộc Bình, buổi lễ tuyên bố thành lập khu du kích Chi Lăng đã diễn ra tại đình Pò Khưa (thôn Còn Cuồng, xã Khuất Xá) với sự tham gia của đông đảo nhân dân các xã trong khu du kích. Tại ngôi đền thiêng cổ kính, những người con trung hiếu của quê hương đã cắt tiết gà hòa vào chén rượu nồng thực hiện nghi thức “uống máu ăn thề” thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng, một lòng ủng hộ kháng chiến. Từ tháng 4/1947, hoạt động của khu du kích được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo Liên khu Chi Lăng.

Đình Pò Khưa (thôn Còn Cuồng, xã Khuất Xá) nơi diễn ra sự kiện tuyên bố thành lập Khu du kích Chi Lăng ngày 25/2/1947
Ngay sau khi thành lập, mặc dù bị kẻ địch tìm mọi cách hòng phá vỡ khu du kích, nhưng dưới sự chỉ đạo của Ban lãnh đạo kháng chiến huyện và Ban lãnh đạo Liên khu, Khu du kích Chi Lăng đã không ngừng được xây dựng, củng cố vững chắc. Quân dân ngày đêm luân phiên nhau đào đất, đắp lũy tạo nên một hệ thống pháo đài, chiến lũy kiên cố, bề thế. Trên các mỏm núi cao thuộc hai xã Tĩnh Gia và Tú Mịch xây dựng 6 pháo đài chính với tầm quan sát rộng. Hỗ trợ cho các pháo đài chính là 6 điểm chốt. Mỗi pháo đài đều có một đồn lũy rộng chừng 50 m2, trong đó có 3 tầng hầm được bao bọc bởi các lớp tường trình dày đến 80 cm, cao 1,8 - 2m. Xung quanh pháo đài là tường lũy cao 1 - 1,5m che chắn. Dưới chân tường lũy có hào sâu cắm chông, gài bẫy dày đặc ngăn cách. Từ các pháo đài có hệ thống giao thông chi chít xuống làng bản và nối liên hoàn giữa các làng bản trong toàn khu du kích. Các con đường mòn xung yếu dẫn vào bản đều được đào hố, cắm chông, gài bẫy mìn nhằm ngăn chặn bước tiến của địch. Các rặng tre, bụi tre quanh làng cũng được bó bầu, ken dày hơn để che chắn, hạn chế tầm nhìn của địch. Với phương châm nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, dân quân, du kích thường xuyên túc trực tại các pháo đài, chốt gác tiền tiêu để theo dõi địch và báo động trong toàn khu.
Song song với việc xây dựng thế trận chiến đấu là công tác tổ chức lực lượng. Ngay từ những ngày đầu, hơn 300 nam, nữ thanh niên đã hăng hái tình nguyện gia nhập quân du kích. Để kịp thời trang bị vũ khí cho du kích chiến đấu, Ban lãnh đạo Liên khu đã vận động mỗi gia đình đã đóng góp từ 25 viên đạn trở lên. Nhiều gia đình tự nguyện góp tiền, của để mua súng. Chỉ trong một thời gian ngắn đã trang bị cho du kích được khoảng 300 khẩu súng các loại. Từ tháng 5/1947 dân quân du kích tích cực luyện tập, huấn luyện phương án tác chiến, bố trí phòng thủ trong toàn khu du kích. Các cụ già, em nhỏ cũng được tổ chức vào các đội tải thương, liên lạc và tuần tra canh gác. Những người còn lại tích cực tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích trữ và đảm bảo đủ lương thực, thực phẩm nuôi quân tại chỗ.
Chính từ thế trận vững vàng “ý Đảng lòng dân” ấy, kể từ giữa năm 1947 khu du kich Chi Lăng đã bắt đầu lập công xuất sắc, viết tiếp những trang vàng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của quê hương Xứ Lạng. Quân dân du kích Chi Lăng thường xuyên phối hợp tác chiến với các đơn vị bộ đội đánh địch trên đường số 4 từ Lộc Bình sang Đình Lập. Đồng thời chủ động tổ chức phá tề, trừ gian; mở các đợt tấn công vào các vị trí tập trung quân của địch tại các đồn bốt xung yếu: Pò Lèn, Na Dương, Thồng Già, Chi Ma (Lộc Bình) để tiêu hao sinh lực địch, uy hiếp tinh thần chiến đấu của chúng và ngăn chặn sự tấn công của chúng vào khu du kích. Bên cạnh đó còn tích cực hỗ trợ căn cứ du kích Nà Thuộc của Đình Lập trong chiến đấu. Tháng 11/1948 đã phối hợp với bộ đội chủ lực tấn công đồn Pò Háng, bốt Nà Táng, và đồn Khòn Quang trên địa bàn huyện Đình Lập. Quân dân du kích Chi Lăng cũng đã nhiều lần đánh lui các toán thổ phỉ từ bên kia biên giới tràn vào cướp phá hoặc tàn quân Tưởng bị quân giải phóng Trung Quốc truy kích chạy sang đây ẩn nấp...
Sự ra đời cùng những ảnh hưởng to lớn của Khu du kích Chi Lăng khiến quân Pháp vô cùng tức tối, lo sợ. Bên cạnh việc đe dọa, lôi kéo nhân dân trong khu du kích, chúng liên tục tổ chức các trận tấn công, càn quét nhằm xóa sổ khu du kích, tiêu diệt lực lượng vũ trang, cắt đứt sự chi viện, phối hợp khu du kích đối với lực lượng kháng chiến khác... Chỉ trong vòng 3 năm (1947-1950) quân Pháp đã tổ chức 36 trận càn lớn nhỏ vào khu du kích. Chúng liên tục bắn phá các điểm chốt, pháo đài chiến đấu, huy động quân ồ ạt tấn công vào khu du kích. Có những trận như trận càn diễn ra từ ngày 25 đến 29/5/1948, quân Pháp huy động khoảng 700 tên lính gồm cả lính Pháp và lính ngụy, phỉ, có máy bay và pháo kích oanh tạc yểm trợ nhưng đều thất bại trước ý chí kiên cường, bất khuất và tinh thần chiến đấu dũng cảm của du kích Chi Lăng. Với những thành tích xuất sắc đó, cuối năm 1948, Khu du kích Chi Lăng đã được Quân khu biểu dương là đơn vị “Lá cờ đầu trong phong trào giết giặc lập công” trên toàn tuyến mặt trận đường 4.
Trong suốt quá trình hình thành, phát triển, Khu du kích Chi Lăng luôn là hậu cứ vững vàng, là địa bàn đứng chân cho bộ đội và dân quân của du kích trên đường số 4 ngay sau lưng địch. Các tổ chức đoàn thể: chi bộ đảng, hội phụ nữ, thanh niên hoạt động nền nếp, quy củ, là trung tâm đoàn kết, vận động quần chúng trong xây dựng căn cứ du kích và huy động sức người, sức của phục vụ chiến đấu. Năm 1949, quân dân Khu du kích Chi Lăng đã vinh dự được Đảng, Chính phủ tặng Huân chương Quân công hạng Ba và cờ danh dự “Khu du kích kiểu mẫu”. Khu du kích Chi Lăng cùng với khu du kích: Ba Sơn (Cao Lộc), Nà Thuộc (Đình Lập) tạo thành vành đai chiến tranh du kích vững mạnh của tỉnh trong kháng chiến chống Pháp. Những chiến công vang dội trên mặt trận đường số 4, Lạng Sơn hoàn toàn giải phóng khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp ngày 17/10/1950 có một phần đóng góp không nhỏ của quân dân khu du kích Chi Lăng.
Ngày nay có dịp về Khuất Xá, Mẫu Sơn, chúng ta vẫn nhận thấy dấu tích của Khu du kích Chi Lăng năm xưa qua các điểm di tích: Đình Pò Khưa, pháo đài Khau Chài, chốt Khau Chu (xã Khuất Xá), pháo đài Phạc Phiền, Khau Hai (xã Mẫu Sơn)… Di tích Khu du kích Chi Lăng gồm 13 điểm đã được UBND tỉnh Lạng Sơn xếp hạng là di tích cấp tỉnh năm 2002. Trong Bảo tàng tỉnh và bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam hiện vẫn còn lưu giữ một số hiện vật liên quan đến hoạt động của khu du kích như: Chiếc thuổng nhân dân đã dùng để xây dựng căn cứ du kích, Thông tri huy động gạo, biên nhận gạo cho bộ đội và du kích chiến đấu ở khu du kích Chi Lăng; túi đựng đạn của lính Pháp, mũ calo của quan Hai Pháp Panhge bị bắn chết trong trận chống càn vào khu du kích ngày 2/8/1948; bộ đồ nhà bếp (bàn sản, bát đĩa bằng tre, gỗ) du kích Chi Lăng đã dùng thời kỳ 1947-1950; đồ dùng sinh hoạt, vũ khí chiến đấu của du kích Chi Lăng… Tất cả luôn gợi nhớ về một thời gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt. Mãi mãi còn đó khu du kích Chi Lăng như một biểu tượng sáng ngời về ý chí kiên cường và lòng dũng cảm của mảnh đất, con người Xứ Lạng.