Không thể đội lốt tự do ngôn luận để chống phá đất nước

Sau khi cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với các đối tượng Lê Trung Khoa, Nguyễn Văn Đài về hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các thế lực thù địch, đối tượng chống đối đã lập tức lan truyền các luận điệu xuyên tạc, cho rằng đây là hành động 'hạn chế tự do ngôn luận', 'cản trở những người phản biện xã hội'...

Lại đánh tráo khái niệm, núp bóng tự do ngôn luận

Ngày 8/11 và 18/11/2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối với Lê Trung Khoa, Nguyễn Văn Đài về tội danh được quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự. Các bước tố tụng này đều được VKSND Tối cao phê chuẩn theo đúng quy định pháp luật. Thế nhưng 2 đối tượng trên và số tổ chức, đối tượng phản động lưu vong tiếp tục xuyên tạc việc khởi tố, bẻ lái bản chất vụ việc để đả phá pháp luật Việt Nam, vu cáo cơ quan chức năng.

Trong bối cảnh truyền thông số và mạng xã hội phát triển nhanh chóng, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng cơ hội chính trị đã không ngừng khai thác không gian mạng để tán phát thông tin sai sự thật, xuyên tạc tình hình, gây nhiễu loạn nhận thức xã hội. Một trong những thủ đoạn phổ biến nhất là lợi dụng chiêu bài “tự do ngôn luận”, “nhân quyền”, “báo chí độc lập” nhằm che đậy hành vi phạm pháp. Thực tế cho thấy, không ít cá nhân đã sử dụng danh nghĩa phản biện xã hội để tiến hành các hoạt động chống phá, gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Âm mưu, thủ đoạn hoạt động biểu hiện ở các nội dung sau:

Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên kích hoạt, thực hiện các chiến dịch truyền thông sai lệch mỗi khi cơ quan chức năng xử lý vụ án liên quan đến an ninh quốc gia. Mục tiêu của chúng là vu cáo Việt Nam “kiềm chế dân chủ”, “không có tự do ngôn luận” trong khi pháp luật Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới đều có quy định rõ ràng về trách nhiệm, giới hạn của tự do ngôn luận nhằm bảo đảm trật tự, an ninh và lợi ích cộng đồng. Sự đánh tráo khái niệm này khiến một số người bị dẫn dắt, nhất là khi các thông tin sai lệch được thiết kế theo cách gây sốc, cảm tính, đánh vào tâm lý tò mò, thị hiếu của người sử dụng mạng xã hội.

Thứ hai, thủ đoạn của các thế lực chống phá thể hiện ở việc tạo dựng hệ sinh thái “truyền thông đen” như xây dựng các trang mạng núp bóng “báo chí độc lập”, tài khoản cá nhân chuyên đăng tải thông tin xuyên tạc, kênh you tube hoặc fanpage chia sẻ nội dung cắt ghép, suy diễn. Các nội dung này thường xuất hiện đồng loạt, có tính phối hợp, sử dụng ngôn từ tiêu cực, quy kết chủ quan, thiếu căn cứ. Mục tiêu của việc lan truyền thông tin theo mô thức “đồng thanh” hòng tạo cảm giác như dư luận chung, từ đó tác động vào tâm lý người sử dụng mạng xã hội.

Thứ ba, các đối tượng hướng lái bản chất vụ việc nhằm bôi nhọ uy tín của Đảng, Nhà nước, các đồng chí lãnh đạo, bôi nhọ cơ quan tiến hành tố tụng. Các đối tượng thường xoáy sâu vào những vấn đề nhạy cảm, những sự kiện đơn lẻ, sau đó suy diễn thành bản chất của chế độ, phủ nhận các thành tựu phát triển mà Việt Nam đã đạt được. Đây là thủ đoạn không mới nhưng vẫn được sử dụng thường xuyên bởi tính lan truyền của mạng xã hội.

Thứ tư, bên cạnh mục tiêu tuyên truyền chống phá, nhiều cá nhân còn sử dụng mạng xã hội như một phương tiện mưu lợi cá nhân, thu lợi bất chính từ việc sản xuất nội dung gây chú ý, nhận tài trợ từ các tổ chức, cá nhân có quan điểm thù địch với Việt Nam. Một số trường hợp cơ quan chức năng xác định có dấu hiệu liên hệ, móc nối với tổ chức phản động ở nước ngoài hoặc hợp tác truyền thông nhằm khuếch tán thông tin bất lợi đối với Việt Nam.

Thứ năm, cách thức chống phá ngày càng tinh vi, được “quốc tế hóa”. Các đối tượng thường xuyên gửi thông tin sai lệch tới một số tổ chức nước ngoài, cố tình biến những vụ án hình sự thông thường thành vấn đề nhân quyền, chính trị, tạo cớ để những tổ chức này gây áp lực ngoại giao đối với Việt Nam. Những hoạt động này không chỉ gây nhiễu loạn nhận thức người dân mà còn ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia.

Cần khẳng định rằng, mục đích của các hoạt động nói trên không nằm ở việc góp ý, phản biện để xây dựng xã hội dân chủ hơn mà là lợi dụng tự do ngôn luận để chống phá đất nước. Thông qua đó nhằm gây rối, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, làm suy yếu nền tảng chính trị - xã hội, hướng đến mục tiêu tạo bất ổn, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Lật tẩy bản chất

Đối với Lê Trung Khoa, theo cơ quan ANĐT, có đủ căn cứ xác địnhđối tượng này đã thực hiện hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Lê Trung Khoa điều hành tài khoản mạng xã hội đăng tải các nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, đưa tin thiếu kiểm chứng và bình luận theo hướng tiêu cực, gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của các cơ quan công quyền. Thông tin mà Lê Trung Khoa phát tán là có hệ thống, không phải hành vi phản biện đơn lẻ mà mang tính tổ chức, tác động tiêu cực đến dư luận và hình ảnh quốc gia. Bên cạnh đó, Khoa từng lợi dụng cơ hội tiếp xúc với một số sự kiện cộng đồng người Việt tại Đức để tạo dựng hình ảnh bản thân, từ đó tăng mức độ ảnh hưởng về các nội dung đăng tải trên mạng. Tuy nhiên, nhiều thông tin Khoa đưa ra là không có cơ sở, sai lệch bản chất vấn đề, gây hiểu lầm cho người xem và cộng đồng.

Đối với Nguyễn Văn Đài, đối tượng này từng có tiền án liên quan đến hoạt động chống Nhà nước và bị tòa án xét xử trước đây. Sau khi xuất cảnh sang Đức năm 2018, đối tượng này tiếp tục tham gia vào một số tổ chức có quan điểm đối lập và tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống Việt Nam trên mạng xã hội. Nguyễn Văn Đài thường xuyên đăng tải nội dung mang tính kích động, bôi nhọ các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đồng chí lãnh đạo, cùng với đó là hoạt động kết nối một số nhóm cực đoan ở nước ngoài. Kết quả điều tra vụ án có đủ căn cứ xác định Nguyễn Văn Đài đã có hành vi làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Việt Nam. Điểm chung của hai trường hợp trên là đều sử dụng các trang mạng xã hội, tự nhận mình hoạt động vì tự do ngôn luận nhưng thực chất là lợi dụng tự do ngôn luận, phát tán thông tin sai lệch, gây ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng. Việc cơ quan chức năng tiến hành khởi tố, điều tra là bước đi cần thiết nhằm xử lý hành vi của các đối tượng theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời đảm bảo môi trường thông tin lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của cộng đồng trước các thông tin sai lệch trên mạng.

Đảm bảo quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam

Tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người, được Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định. Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật Việt Nam xây dựng nhiều cơ chế để bảo đảm người dân có quyền tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến, tham gia thảo luận về các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, tự do ngôn luận luôn đi đôi với trách nhiệm và pháp luật đặt ra giới hạn để ngăn ngừa việc lợi dụng quyền này nhằm xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cộng đồng.

Việt Nam hiện có hàng trăm cơ quan báo chí, hàng nghìn trang thông tin điện tử và hàng chục triệu tài khoản mạng xã hội. Không gian truyền thông rộng mở đã tạo điều kiện để người dân tham gia vào quá trình giám sát, phản biện xã hội. Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai phạm đã được báo chí và người dân phát hiện, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, củng cố niềm tin của nhân dân. Điều đó khẳng định báo chí, truyền thông Việt Nam không hề bị hạn chế mà ngược lại đang ngày càng phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và trách nhiệm xã hội cao.

Chủ trương của Đảng nhấn mạnh vai trò của báo chí, truyền thông, là “cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân”, đồng thời là diễn đàn để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền giám sát. Chiến lược phát triển báo chí, truyền thông của Đảng, Nhà nước ta nâng cao chất lượng thông tin, tăng tính phản biện, đảm bảo công khai, minh bạch, chống lại tin giả và thông tin sai lệch. Điều này cho thấy sự tôn trọng, khuyến khích tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật. Trong thời đại số, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện để báo chí chuyển đổi số, cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời và chính xác cho người dân. Đồng thời, cơ quan quản lý cũng tăng cường các biện pháp xử lý tin giả, tin sai sự thật, bảo vệ quyền tiếp cận thông tin lành mạnh của người dân. Hành lang pháp lý như Luật Báo chí, Luật An ninh mạng, Luật Tiếp cận thông tin… đã tạo cơ sở cho cả quyền tự do ngôn luận và trách nhiệm thông tin.

Các tổ chức quốc tế cũng ghi nhận sự phát triển của truyền thông Việt Nam, đặc biệt là việc phổ cập Internet nhanh chóng và rộng rãi. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng Internet cao trong khu vực, là môi trường thuận lợi để công dân bày tỏ ý kiến. Nhà nước không giới hạn việc người dân tham gia mạng xã hội. Tuy nhiên, cũng chính vì môi trường thông tin rộng mở mà nguy cơ tin giả, xuyên tạc, thao túng dư luận gia tăng. Do đó, xử lý các hành vi lợi dụng tự do ngôn luận để phát tán thông tin sai lệch là việc làm cần thiết nhằm bảo vệ xã hội, bảo vệ người dân. Đây là nguyên tắc phổ biến trên thế giới, không quốc gia nào chấp nhận hành vi sử dụng truyền thông để gây bất ổn an ninh, kích động chống phá, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và cộng đồng.

Tự do ngôn luận là quyền cơ bản được pháp luật bảo vệ nhưng không thể bị lợi dụng để phát tán thông tin sai lệch, xâm phạm an ninh quốc gia hay gây tổn hại đến lợi ích xã hội. Việc ra quyết định khởi tố, điều tra đối với những cá nhân như Lê Trung Khoa, Nguyễn Văn Đài là hoạt động tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo sự trong sạch môi trường thông tin và bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích chung của người dân.

Chu Thắng - Thái Phi

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/chong-dien-bien-hoa-binh/khong-the-doi-lot-tu-do-ngon-luan-de-chong-pha-dat-nuoc-i789704/