Không gian mới và hành trình giải mã 'gen nghèo' vùng dân tộc thiểu số - Kỳ 2: Khoảng trống nhân lực và gánh nặng ngàn tỷ từ 'gen nghèo'
Trên những bản làng mịt mờ sương giăng, khi tiếng trống trường vẫn bền bỉ gieo hy vọng, thì bóng ma tảo hôn và hôn nhân cận huyết vẫn âm thầm giăng lối, tước đoạt trang sách của những đứa trẻ chưa kịp đi hết tuổi hồng. Đó không chỉ là sự đứt gãy của những số phận, sự thoái hóa của giống nòi mà còn là lực cản vô hình bào mòn chất lượng nguồn nhân lực, biến những khoản đầu tư phát triển thành gánh nặng an sinh dai dẳng, khiến nhịp bước của vùng cao mãi lỗi nhịp với dòng chảy thời đại.
Kỳ 1: Bi kịch hôn nhân cận huyết và tảo hôn
Gánh nặng ngân sách - “cục máu đông” an sinh
Hai anh, em ruột trong một gia đình người Dao, thôn Thác Hùng, xã Cao Bồ, tỉnh Tuyên Quang đều mắc bệnh tan máu bẩm sinh (TMBS). Dù đã học lớp 9, nhưng cậu anh chỉ nặng 27 kg và cậu em trai học lớp 5 chỉ được 21 kg. Ngày phát hiện ra các em bị bệnh, người mẹ đã bỏ đi lấy chồng khác, bố phải đi làm xa, gia đình này vốn đã khó khăn lại chồng chất khó khăn. Giờ các em sống với ông bà nội, mỗi tháng phải nhập viện để truyền máu ít nhất một lần. Ông nội là người đưa vào bệnh viện, cho tiền mua cơm, rồi lại tất tả ngược xuôi kiếm kế sinh nhai.

Tại Bệnh viện Đa khoa Hà Giang, tỉnh Tuyên Quang, trung bình mỗi tháng có 180 - 200 bệnh nhân TMBS thể nặng đến truyền máu định kỳ.
Theo thống kê, năm 2025 toàn tỉnh Tuyên Quang có hơn 1.600 lượt bệnh nhân TMBS điều trị nội trú; trong đó hơn 20% là con của các cặp vợ chồng tảo hôn, hôn nhân cận huyết.
Thấu hiểu sự khó khăn của bệnh nhân tan máu bẩm sinh, từ năm 2022, HĐND tỉnh Tuyên Quang đã ban hành Nghị quyết về hỗ trợ người mắc một số bệnh, trong đó có tan máu bẩm sinh. Theo đó, người bệnh đang điều trị được hỗ trợ tiền lưu trú, tiền ăn, tiền xăng xe, chi phí điều trị ngoài phạm vi được hưởng của quỹ BHYT. Trong đó, mức hỗ trợ đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo được hưởng 100% mức hỗ trợ của các chính sách; các đối tượng còn lại được hưởng 80% mức hỗ trợ của các chính sách quy định tại Nghị quyết. Thực hiện nghị quyết, hằng năm, ngân sách nhà nước đã thanh toán cho bệnh nhân Thalassamie là hơn 1 tỷ đồng.
Tại Nghệ An, con số 350 - 400 bệnh nhân TMBS đang điều trị thường xuyên tại Trung tâm Huyết học - Truyền máu tỉnh thực chất chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Bác sĩ Nguyễn Thị Kiều Oanh (Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An) thừa nhận một thực tế đau lòng: Nhiều trường hợp bệnh nhân tìm đến viện khi gia cảnh đã kiệt quệ. Họ không chỉ cần máu để duy trì sự sống, mà cần cả sự “tiếp máu” về kinh tế từ cộng đồng. Chính vì thế, Khoa Tiêu hóa - Huyết học lâm sàng của bệnh viện còn phải đảm nhiệm vai trò cầu nối an sinh để giữ lại hy vọng sống cho những phận đời đang bị bệnh tật bào mòn từng ngày.
Năm 2024, cả nước vẫn còn 14,7% người dân tộc thiểu số tảo hôn, tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống là 3,66%. Điều đó đồng nghĩa, mỗi năm hàng nghìn lao động tiềm năng bị loại khỏi thị trường lao động hiện đại ngay từ vạch xuất phát. Phần lớn số còn lại buộc phải tham gia sản xuất nông nghiệp manh mún, thu nhập thấp, nền kinh tế địa phương mắc kẹt trong lao động giản đơn, lặp lại vòng luẩn quẩn đói nghèo.
Câu chuyện của anh Giàng Seo Sàng, thôn Thượng Nguồn, xã Liên Hiệp, tỉnh Tuyên Quang cho thấy vòng luẩn quẩn ấy vận hành qua nhiều thế hệ. Bốn thế hệ trong gia đình đều kết hôn ở tuổi 14 - 16. Con gái anh sinh con khi mới 16 tuổi, tiếp tục đối diện nghèo đói, thiếu thốn, lặp lại đúng con đường mà cha mẹ và ông bà từng đi qua.
Thôn Thượng Nguồn có 54 hộ thì gần 40 hộ tảo hôn, chiếm khoảng 70%. Năm 2025, trong tổng số 7 hộ nghèo và 8 hộ cận nghèo, có tới 10 hộ thuộc diện tảo hôn. Mối quan hệ giữa tảo hôn và nghèo đói hiện lên rõ nét như một vòng tròn khép kín.
Thực trạng này cũng phổ biến ở nhiều xã vùng cao của Tuyên Quang, đặc biệt là các xã biên giới, nơi tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vẫn ở mức rất cao: Yên Cường (61,4%), Cán Tỷ (64,32%), Hồ Thầu (57,7%), Niêm Sơn (54,7%), Phố Bảng (41%), Minh Sơn (40,84%)…
Năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số còn 12,55%. Tại Lào Cai là còn 5,5%, Yên Bái còn 12,14%, vùng miền núi Nghệ An còn 8,66%. Đây không chỉ là vấn đề thu nhập, mà là biểu hiện của một cấu trúc nghèo đói bền vững.
“Điểm gãy” trong chuỗi cung ứng lao động tương lai
Thị trường lao động tại vùng cao đang đứng trước một nghịch lý: Doanh nghiệp “khát” lao động, nhưng người trẻ trong vòng xoáy hủ tục lại không có việc làm.
Anh Hoàng Lý Cấu, Phó Trưởng phòng Văn hóa - Xã hội xã Sơn Vĩ, tỉnh Tuyên Quang cho biết: năm học 2024 - 2025, toàn xã có 320 học sinh lớp 9, nhưng chỉ 175 học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học phổ thông và học nghề; sau đó 30 em tiếp tục bỏ học để đi làm công ty. Con số ấy cho thấy, tình trạng học sinh bỏ học không dừng lại ở cánh cửa THCS, mà vẫn tiếp diễn ngay cả khi các em đã bước vào ngưỡng đào tạo nghề.
Câu chuyện của em Vừ Thị M. (thôn Đậu Chúa, xã Đồng Văn) là một lát cắt đầy bi kịch. Rời ghế nhà trường từ năm lớp 6 để đi làm tự do, M. sớm bước vào một cuộc hôn nhân non nớt khi chưa đủ tuổi kết hôn. Sự thiếu hụt về kỹ năng sống lẫn sinh kế khiến cuộc hôn nhân nhanh chóng “đứt ngang”. Hiện tại, khi M. và chồng không còn chung sống, gánh nặng lại trút lên vai những người già. Hai đứa trẻ tội nghiệp - đứa lớn hai tuổi, đứa nhỏ mới lên một - giờ đây chỉ biết trông chờ vào sự cưu mang của ông bà nội đã già yếu. Câu chuyện cho thấy nghèo đói và hủ tục không chỉ bào mòn hiện tại mà còn tước đoạt tương lai của thế hệ thứ ba ngay từ khi chúng mới lọt lòng.
Hệ lụy của việc bỏ học sớm do tảo hôn không chỉ dừng lại ở sự thiếu hụt kiến thức mà còn đẩy những lao động trẻ vào vòng xoáy của sự bấp bênh. Theo chị Vừa Thị Và, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Đồng Văn (Tuyên Quang), tình trạng trẻ em bỏ học giữa chừng để đi làm tự do hoặc lấy chồng sớm vẫn diễn ra. Do chưa đủ tuổi lao động, các em không thể ký kết hợp đồng chính thức, mất đi mọi quyền lợi bảo hiểm và bị gạt ra lề các chính sách bảo vệ người lao động.
Ở chiều tuyển dụng, chị Nguyễn Anh Yến, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Hoàn Kim VN cho biết, mỗi năm công ty tuyển khoảng 200 - 300 lao động tại Tuyên Quang, phần lớn là lao động phổ thông, người dân tộc thiểu số, chưa có kỹ năng nghề và phải đào tạo lại từ đầu. Điều này làm tăng chi phí cho doanh nghiệp và kéo dài thời gian hình thành đội ngũ lao động ổn định.
Tất cả tạo nên một vòng luẩn quẩn khép kín: tảo hôn - bỏ học - thiếu kỹ năng - lao động sớm - thu nhập thấp - nghèo đói kéo dài qua thế hệ. Khi khoảng trống nhân lực ngày càng rộng, nghèo đói không chỉ là vấn đề kinh tế, mà trở thành một “cấu trúc di truyền xã hội” khó phá vỡ nếu không có những can thiệp đủ mạnh và đủ sớm.
Nghịch lý đầu tư và sự “hụt hơi” của nguồn nhân lực
Trong tư duy quản trị quốc gia, giáo dục được coi là “chìa khóa vàng” để mở cánh cửa thoát nghèo bền vững. Nhìn vào bảng dự toán ngân sách năm 2024, tổng chi thường xuyên cho giáo dục - đào tạo đạt con số ấn tượng 306.128 tỷ đồng, tăng 6,78% so với năm 2023. Tỷ trọng chi cho giáo dục tiếp tục duy trì ở mức khoảng 20% tổng chi ngân sách Nhà nước, thể hiện quyết tâm ưu tiên cho phát triển con người.
Tại các tỉnh miền núi như Tuyên Quang, giáo dục không chỉ là con chữ mà là hy vọng của cả cộng đồng. Nhưng nghịch lý vẫn tồn tại dai dẳng: tỷ lệ học sinh bỏ học trong nhóm tuổi 13 - 17 còn cao. Đáng nói, nhiều em rời trường không phải vì thiếu ăn, thiếu mặc hay thiếu chính sách hỗ trợ, mà vì tảo hôn - một lực cản vô hình nhưng bền bỉ, làm triệt tiêu hiệu quả của mọi khoản đầu tư.
Em Sùng Thị S. thôn Đoàn Kết, xã Bản Máy, tỉnh Tuyên Quang bất ngờ bỏ học để lấy chồng và sinh con khi đang học lớp 9, đang được hưởng đầy đủ chính sách hỗ trợ của Nhà nước, đứng trước cơ hội tiếp tục học lên THPT. Quyết định ấy không chỉ khép lại con đường học tập của cá nhân em, mà còn lãng phí toàn bộ nỗ lực đầu tư của Nhà nước và xã hội suốt gần một thập kỷ.
Giống như S. tại thôn Đoàn Kết có 5 cặp tảo hôn, thì hầu hết đều không học hết THCS, có em bỏ học từ năm lớp 6, lớp 7.
Tại xã Yên Minh, em Giàng Thị P. thôn Khai Hoang 1, vừa học đến lớp 8 thì bỏ học lấy chồng. Còn tại thôn Khai Hoang 2 và thôn Mon Vải, trong năm 2024, 2 em Lầu Thị S. và Vàng Thị Chở đều tảo hôn khi đang học dở lớp 9.
Tảo hôn, bỏ học là câu chuyện phổ biến ở nhiều bản làng vùng cao. Ông Sú Xín Phương, Trưởng thôn Tả Chải 4, xã Tân Tiến cho biết: Năm học 2025 - 2026, thôn có 8 học sinh học THCS, thì có 3 em bỏ học đi làm khi đang học dở lớp 8, có em bỏ học rồi lấy chồng”. Bà Lê Thị Như Hoa, Hiệu trưởng Trường PTDT bán trú TH&THCS Thèn Chu Phìn trăn trở khi mỗi năm chỉ có khoảng 40 - 45% học sinh lớp 9 tiếp tục học lên cấp cao hơn, và có 1 - 2 học sinh bỏ học giữa chừng khi đang học dở lớp 7 - 8.
Tương tự, tại một số tỉnh như Lào Cai, nguồn lực đầu tư cho giáo dục là 3.104 tỷ đồng; tại Đắk Lắk là trên 6.692 tỷ đồng cũng bị “rò rỉ” do tảo hôn và hôn nhân cận huyết. Dưới góc độ quản trị phát triển, đây là sự lãng phí đầu tư công tầng nấc. Nguồn lực không thể kết tinh thành giá trị lao động mà bị triệt tiêu ngay từ khi chưa kịp hình thành. Khi nguồn lực bị rò rỉ, mọi khoản đầu tư cho hạ tầng giáo dục dù lớn đến đâu cũng dễ thành những “kho chứa rỗng”, không tạo ra được lực đẩy thực sự cho kinh tế địa phương.
Cuộc chiến chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết, suy cho cùng, không thể chỉ dừng lại ở lời khuyên nhủ về đạo đức hay văn hóa. Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật trần trụi: Những đứa trẻ sinh ra từ “gen lỗi” đang tạo nên một khoảng trống nhân lực khổng lồ mà không nguồn vốn nào có thể bù đắp nổi. Những cơ thể còi cọc, trí tuệ chậm phát triển không chỉ khép lại tương lai của chính mình mà còn trút lên vai xã hội gánh nặng ngàn tỷ cho chi phí y tế và trợ cấp an sinh. Nếu không quyết liệt cắt bỏ khối u ác tính mang tên “gen nghèo” này, thì mọi nỗ lực đổ tiền đầu tư điện - đường - trường - trạm lên vùng cao cũng chỉ như muối bỏ bể, khi chủ thể của sự phát triển là con người đã mang “gen nghèo” ngay từ trong trứng nước.
Bài, ảnh: Chúc Huyền, Kim Tiến, Thu Phương, Giang Lam, Biện Luân, Hoàng Hà
(còn nữa)
































