'Không có gì phải lo ngại nếu bỏ room tín dụng'
Vấn đề bỏ hạn mức (room) tín dụng đang nhận được sự quan tâm của cộng đồng tài chính - ngân hàng; một số ý kiến cho rằng, nếu bỏ room tín dụng mà chưa có công cụ điều tiết phù hợp, dòng vốn có thể bị phân bổ thiếu hiệu quả, gây rủi ro cho nền kinh tế. Tuy nhiên, Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam Phạm Xuân Hòe cho rằng 'không có gì phải lo ngại'.
Bỏ room tín dụng sẽ thúc đẩy cạnh tranh, hạ lãi suất
“Trong hơn 10 năm qua, Ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ room tín dụng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận”, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VBA) Nguyễn Quốc Hùng đúc kết tại tọa đàm “Cơ chế kiểm soát tín dụng: thay thế hạn mức bằng bộ tiêu chí an toàn”, do Tạp chí Kinh tế Việt Nam vừa tổ chức. Cụ thể, room tín dụng đã thể hiện là công cụ hiệu quả giúp điều tiết tăng trưởng tín dụng, giữ ổn định lãi suất, tỷ giá; đồng thời, thúc đẩy các ngân hàng từng bước nâng cao hệ số tài chính, bảo đảm an toàn cho chính tổ chức cũng như cả hệ thống.

Việc bỏ room tín dụng sẽ thúc đẩy cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, qua đó hạ lãi suất. Ảnh: T.L
Tuy nhiên, theo ông Hùng, khi các ngân hàng từng bước nâng cao năng lực tài chính và hệ số an toàn vốn (CAR) được cải thiện, thực tế đã xuất hiện tình trạng không đồng đều trong việc sử dụng room tín dụng. Có ngân hàng không sử dụng hết hạn mức được giao, trong khi một số ngân hàng khác - dù đáp ứng đầy đủ các chuẩn an toàn vốn - lại sớm cạn room và phải chờ Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh. “Đã có thời điểm, việc phân bổ hạn mức tín dụng chưa thật sự linh hoạt, xảy ra độ trễ trong điều hành, ảnh hưởng đến khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế,” ông Hùng nhận định và cho rằng đây là lý do cần xem xét việc bỏ room tín dụng.
Vừa qua, Thủ tướng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gỡ bỏ công cụ quản lý hành chính trong phân bổ tín dụng để chuyển sang điều hành theo nguyên tắc thị trường, trên cơ sở bộ tiêu chí kiểm soát rủi ro tín dụng khoa học, phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Tán thành chủ trương bỏ room tín dụng, ông Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Đại học VinUni, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN, phân tích: áp dụng room tín dụng thực chất là hình thức "chia" thị phần giữa các ngân hàng, từ đó làm suy giảm tính cạnh tranh trong hệ thống; theo ông, nguyên tắc của thị trường là cạnh tranh bằng việc giảm giá - trong trường hợp này là giảm lãi suất, để giành thị phần. Tuy nhiên, khi hạn mức tín dụng bị giới hạn, các ngân hàng không còn động lực cạnh tranh lãi suất, vì phần "miếng bánh" đã được phân sẵn; ông cho rằng chỉ khi dỡ bỏ room tín dụng, khơi thông cạnh tranh lành mạnh, mới có thể tạo điều kiện để mặt bằng lãi suất giảm, qua đó mang lại lợi ích thiết thực cho nền kinh tế.
Mặt khác, duy trì room tín dụng trong thời gian dài cũng tác động tiêu cực tới khách hàng. Đơn cử, khách hàng có các khoản vay kỳ hạn ngắn 3 - 6 tháng, theo tiến độ dự án, nhưng đến kỳ tái cấp vốn ngân hàng lại thông báo hết room; khi đó, khách hàng sẽ rất khó xoay xở nguồn vốn mới.
Xét về tâm lý thị trường, Giám đốc Phân tích và nghiên cứu, Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank (VCBF) Nguyễn Hoàng Linh nhìn nhận, khi bỏ room tín dụng, nhà đầu tư sẽ đánh giá thị trường Việt Nam vận hành minh bạch, theo cơ chế thị trường hơn, qua đó gia tăng niềm tin của họ. Với một số ngân hàng thương mại có quy mô vốn lớn, quản trị rủi ro tốt, khách hàng chất lượng, thì việc bỏ hạn mức tín dụng sẽ giúp họ có không gian thông thoáng hơn để phát triển.
“Những yếu tố này làm tăng tính hấp dẫn của ngân hàng Việt Nam trong mắt nhà đầu tư, tác động tích cực tới dòng vốn đầu tư vào ngân hàng - đây là điểm rất quan trọng trong bối cảnh một số ngân hàng muốn tăng vốn trong thời gian tới”, ông Linh phát biểu.
Vẫn còn nhiều công cụ để quản lý
Dù vậy, khi bỏ room tín dụng còn nhiều vấn đề cần quan tâm. “Liệu có khiến nền kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào tín dụng?”. Nêu vấn đề, ông Nguyễn Hoàng Linh cho rằng, để đạt mục tiêu tăng trưởng cao hai con số, Chính phủ định hướng quy mô vốn đầu tư toàn xã hội lên 40% GDP thay vì khoảng 30% GDP như hiện nay.
Dự tính, quy mô vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam đến 2030 khoảng 9 triệu tỷ đồng, tức nhu cầu vốn rất lớn, song thị trường cổ phiếu và trái phiếu lại chưa phát huy hết vai trò thì kênh tín dụng ngân hàng vẫn là chủ yếu; trong khi các ngân hàng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn 12 tháng trở xuống mà cho vay trung và dài hạn 3 - 5 năm, thậm chí vài chục năm sẽ tạo rủi ro bất cân xứng về kỳ hạn.
Mặt khác, khi bỏ room tín dụng thì NHNN còn công cụ nào khác để định hướng vốn vào những ngành ưu tiên cũng như kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro như chứng khoán, bất động sản? “Việc gỡ bỏ hạn mức tín dụng mà chưa có công cụ định hướng dòng chảy vốn tín dụng hiệu quả sẽ dẫn đến nguồn vốn không được phân bổ hợp lý, có thể khiến các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp khó tiếp cận tín dụng, trong khi lại tập trung quá nhiều cho kênh đầu cơ bất động sản thì sẽ tạo rủi ro”, ông Linh lo ngại.
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Tú Anh, khi bỏ room tín dụng, NHNN vẫn có trong tay nhiều công cụ điều hành để bảo đảm an toàn hệ thống, như điều chỉnh hệ số cảnh báo, nhất là cảnh báo sớm; công cụ lãi suất trên dự trữ bắt buộc... Điều quan trọng là NHNN phải thật kỹ trị, có bộ phận chuyên môn bám sát thị trường; đồng thời NHNN phải là nơi chuyển đổi số nhanh nhất để kịp thời nắm được các biến động, chỉ số cảnh báo, những điểm cần can thiệp sớm.
Ngoài ra, theo Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam Phạm Xuân Hòe, NHNN còn có thêm các công cụ khác, như tín phiếu NHNN bắt buộc, bộ đệm tỷ lệ bảo đảm vốn trung - dài hạn khi cho vay trung - dài hạn để không lệch pha về thanh khoản, hay tỷ lệ tổng vốn huy động trên vốn chủ sở hữu… Khi sử dụng các công cụ đó, với tính kỹ trị của Ngân hàng Nhà nước, sẽ khiến việc bỏ room tín dụng “không có gì phải lo ngại”.
Ông Hòe lưu ý, có 3 điều kiện chính để kiểm soát hạn mức tín dụng; đó là: không để tín dụng tăng trưởng quá nóng vào các lĩnh vực rủi ro như bất động sản, chứng khoán, nếu tăng trưởng nóng thì phải có công cụ room tín dụng; tránh phân bổ lệch để tín dụng chủ yếu chảy vào các “sân sau”; kiểm soát chặt để tránh tái diễn tình trạng tín dụng tăng nóng như giai đoạn 2008 - 2011 gây bất ổn vĩ mô, làm nợ xấu ngân hàng tăng cao, rủi ro cho hệ thống; chúng ta cũng cần có lộ trình để cân bằng giữa tín dụng ngân hàng và kênh chứng khoán, trái phiếu.